Latest Post
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện Kinh Dị Truyện Ma. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện Kinh Dị Truyện Ma. Hiển thị tất cả bài đăng

Ma Không Đầu

Written By Son Nguyen on Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012 | 06:00


vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn, có một xóm đạo gọi là Giáo Xứ Tân Thành ở trong khu đó có một người con gái tên Trinh. Nhà của Trang có 3 gian, nhà tắm, nhà bếp đều có đủ. Vì đất của ông bà để lại rất là rộng, cho nên Ba của Trang đã trồng rất nhiều cây ăn trái và đủ loại hoa hết trông thật đẹp nhưng có vẻ hơi âm ụ

Ma Không Đầu

Trang là chị Hai cho nên từ nhỏ đã ngủ một mình trong căn phòng nhà trên. Thường thường trước khi đi ngủ Trang hay đóng cửa sổ lại vì sợ phải nhìn ra ngoài; trời thì tối om mà cây cối khi bị gió thổi cứ đưa qua đưa lại và tiếng kêu xào xạc của lá làm người nghe cũng rợn tóc gáy huống gì một đứa bé chỉ mới 12 tuổi mà thôị Tuy mỗi đêm đều đóng cửa sổ, nhưng có nhiều đêm Trang thức giấc lại thấy cửa sổ tự động mở toang; nhiều khi sợ quá kêu đứa em gái thứ tư qua ngủ chung. Nhưng chỉ được một đêm thôi là đứa em không chịu nổi vì cái gường của Trang chỉ dành cho một người cho nên hai chị em ngủ chung thì hơi chật và thấy rất là nóng...
Ngoài ra, Trang rất sợ phải ngủ ở gian giữa gần nhà tắm đó. Cái gian đó từ nhỏ đến lớn mỗi lần ngủ ở cái gian giữa là Trang không bao giờ có một giấc ngủ yên lành. Cứ giữa đêm lại thức giấc cho đến gần sáng. Có một lần ngủ với bà ngoại cũng vậy, Trang cũng bị thức giấc giống như ai đó gọi dậy... Chính Trang cũng không hiểu tại sao mình ngủ không được, Trang chỉ biết rằng có cái gì đó làm Trang sợ sệt và không dám ngủ.
Năm 80, nhà Trang mở quán cafe và có người dì họ đến ở chung để phụ buôn bán với mẹ Trang. Một hôm, có một người anh họ đến nhà ở trọ vì trốn nghĩa vụ cho nên không dám về nhà sợ công an bắt. Tối hôm đó khoảng 10 giờ rưỡi, quán đông khách lu chứa nước hết, Trang phải đi xách nước từ nhà tắm đổ vào lu để có nước pha cafẹ Khi đi xuống nhà tắm thì phải qua gian nhà giữa, Trang thấy anh họ (anh họ ngủ ở gian giữa gần nhà tắm) cứ nói ú ớ gì đó trong họng và còn cười khúch khích nữa, Trang nghĩ là chắc là anh họ mớ nên cười thầm trong bụng: "Anh họ lớn rồi mà còn mớ nữa kìa"...
Rồi khoảng 12 giờ mấy, sau khi dọn dẹp xong, chờ má và dì chui vào mùng xong rồi thì Trang là người tắt đèn và chui vào mùng của mình chuẩn bị ngủ thì lúc đó nghe tiếng chân anh Tùng chạy lên nhà trên. Vừa chạy lên nhà trên, anh Tùng vội chui vào mùng bà dì và nói với một giọng sợ sệt:
- Dì H. cho con ngủ chung vớị Con sợ quá. Con ngủ ở dưới kia bị ma nó phá và thọt lét con nhột quá chừng.
Dì của Trang thì tưởng ảnh bị mê sảng gì đó, nên mới nói lớn:
- T! T! Bình tỉnh lại coi và nói từ từ cho dì nghẹ Một lúc sau anh họ mới lấy lại bình tĩnh và nói tiếp:
- Con đang ngủ thì con thấy từ nhà tắm có một bóng đen đi vàọ Bóng đen đó đến gần gường và nắm lấy cánh tay con, ngay cái đồng hồ mà con đang đeo đây nè, sau đó nó thọt lét con. Con mắc cười mà cười không ra tiếng. Con ráng nhìn kỹ coi là ai nhưng mà con chỉ thấy tay chân và mình mà thôi, không có thấy đầu đâu hết.
Nghe đến đây Trang nghĩ đến lúc mình đi lấy nước nghe anh họ ú ớ có lẽ lúc đó con ma nó đang thọt lét ảnh, vậy mà mình chẳng hay biết gì hết, thật là ghê quá chừng. Lúc đó mình mẩy của Trang nổi da gà hết trơn và không dám nhúch nhích cựa quậy gì hết.
Sau khi nghe anh họ kể xong, dì H. mới nói:
- Thôi để dì xuống đó ngủ xem sao, còn T. ngủ ở đây đị
Sáng hôm sau anh họ không dám ở lại nhà của Trang thêm một giây phút nào nữạ Còn dì H. sau khi xuống gian giữa ngủ thì dì thức sáng đêm để xem có chuyện gì xảy ra hôn? Nhưng mà dì có thấy ai đâu...
Thật ra cả gia đình của Trang không có ai thấy ma cả... chỉ có anh họ thấy mà thôị
Ngoài ra, còn có vài người trong xóm họ đi buôn bán về khuya hay là sáng sớm gì đó, họ thấy có người ngồi trên chiếc xích đu cũ kỹ ở ngoài sân và chiếc xích đu này là của bà nội mua cho Trang khi còn bé. Bà nội của Trang đã mất khi Trang được 6 tuổi, cho nên có người nghĩ rằng bóng đen đó là hồn ma của bà nội Trang.
Khi bà nội Trang chết, cái hòm đựng xác bà nội vẫn còn để ở nhà vì chưa đến ngày chôn. Có một đêm vì sao đó Trinh ngủ không được thức dậy ra sau bếp thấy má và vài người bà con đang làm bánh và nấu thức ăn để ngày mai cúng. Má Trang thấy Trang thức thì mới bảo:
- Sao con không đi ngủ đị
Lúc đó Trang im lặng không nói gì hết và đi ra ngoài hàng ba thì thấy đứa em trai kế cũng không ngủ được nên ra hàng ba ngồi hóng mát. Trang đi đến và ngồi xuống bên cạnh em, lúc đó không biết mấy giờ nhưng thấy trời còn tối lắm có lẽ nữa đêm. Hai chị em đang ngồi thì bỗng nhiên nghe tiếng "đùng" cũng hơi lớn ở đằng sau lưng mình. Trang vội quay đầu nhìn lại thì tấm hình của bà nội để dựa vào cái hòm đang rung rinh và hình như cái hòm cũng đang rung rinh nữạ Sợ quá, Trang chạy ngay xuống nhà bếp nói cho má nghe, nhưng má không có chịu tin...
Ðến bây giờ Trang vẫn còn nhớ rõ cái hình ảnh và tiếng động đó. Ngoài ra Trang còn nhớ rằng khi đưa bà nội đi chôn, cái xe tang lạ lùng lắm, không giống như xe tang bây giờ, và Trang đã gục đầu trên hòm bà nội ngủ một giấc ngon lành
Kết Thúc (END)

Yêu Nữ


Hắn đứng chân trần trên cát, dưới ánh nắng nóng bức và mùi tanh nồng của hải cảng, dưới tấm bạt mỏng của một quầy cà phê nhỏ. Chiếc quần màu hung cũ mèm của hắn ngắn tới chỗ mắt cá chân, hai bàn chân hắn dài chai sạm và nứt nẻ, những ngón tay mềm mại trước đây giờ đã thô ráp như đá.

Yêu Nữ

Chiếc sơ-mi hắn mặc có màu xanh nhạt hài hoà với sắc trời bạc phếch trong nắng hè chói chang. Hắn đưa cánh tay phải ra một cách ương ngạnh và khó chụ, như muốn yêu cầu khách tới thăm các viện bảo tàng phải bố thí mới được chiêm ngưỡng. Những tiếng lắp bắp ngô nghê bật ra từ cái miệng mở to, để lộ hai hàm răng trắng loá của hắn.
Gã câm điếc à?
Gã không điếc đâu.
Jean Demetriadis, chủ nhân của các xưởng sản xuất xà phòng lớn trên đảo, lợi dụng lúc hắn đang lơ đãng nhìn về phía biển, thả một đồng drachme (tiền Hi Lạp cổ) xuống nền quán trơn nhẵn. Tiếng leng keng rất khẽ và gần như tắt ngay do lớp cát mịn vương trên nền quán vẫn chui vào đôi tai của gã hành khất. Hắn nhặt vội đồng bạc kim loại trắng rồi lập tức đứng lại như cũ, trầm tư và buồn rầu, như con hải âu đậu trên bến cảng.
Gã không điếc đâu - Jean Demetriadis lập lại rồi đặt xuống trước mặt mình một ly nước bã nhớt và đen đã uống gần một nửa. Gã hành khất Panegyotis này đã bị câm lúc mười tám tuổi vì đã gặp lũ ma Nerayder.
Một nụ cười mỉm hiện trên đôi môi Panegyotis khi hắn nghe nhắc đến tên mình. Hắn tỏ ra không hiểu ý nghĩa lời nói của người kia, người mà hắn lờ mờ nhận là người bảo trợ của mình, nhưng hắn chỉ cảm nhận được qua giọng nói, chứ không phải ngôn từ. Hài lòng vì biết người ta đang nói về mình hắn càng hy vọng được thêm một lần bố thí nữa nên lặng lẽ chìa tay ra phía trước, giống như vẻ sợ sệt của con chó khi nó khẽ chạm chân vào gối ông chủ để nhắc ông ta đừng quên cho nó ăn.
Hắn là con trai của một trong những gia đình nông dân khá giả nhất làng tôi - Jean Demetriadis nói tiếp - họ là những người giàu thực sự. Cha mẹ hắn có những cánh đồng mênh mông, một ngôi nhà lỗng lẫy bằng đá khối, một vườn cây ăn trái xum xuê, một vườn rau xanh tốt, một chiếc đồng hồ báo thức đặt trong bếp, một ngọn đèn cháy sáng suốt ngày đêm trước bức tường treo đầy ảnh thánh, nghĩa là họ có đủ thứ cần thiết. Người ta có thể nói về Panegyotis là, trước mặt hắn lúc nào cũng có ổ bánh mì nóng giòn cho đến trọn đời. Đối với hắn con đường đã mở sẵn ở phía trước dù là con đường Hi Lạp bụi cát, gập gềnh sỏi đá, nhưng vẫn có tiếng chim hót véo von. Hắn đã hứa hôn với con gái của vị bác sĩ thú y, một cô bé ngoan làm việc trong xưởng của tôi; vì hắn rất đẹp trai nên có hàng đống nhân tình ở cái xứ sở đầy những cô gái thèm khát yêu đương này; người ta còn đồn rằng hắn đã vụng trộm với vợ của ông linh mục; mà nếu như điều đó có thật thì ông linh mục cũng chẳng trách hắn vì ông vốn không mấy yêu phụ nữ và cũng chẳng quan tâm gì đến vợ mình, vả lại cô nàng luôn tỏ ra sẵn sàng với bất kỳ ai. Các vị thử hình dung hạnh phúc của thằng Panegyotis xem: nào là tình yêu của những người đẹp, sự ghen tỵ của bọn đàn ông và đôi khi cả sự thèm khát của họ nữa, nào là chiếc đồng hồ bạc và hàng ngày lại thay một chiếc sơ mi trắng tinh, nào là đĩa cơm chiên thịt vào bữa trưa và nước màu xanh lam ngát hương xức trước bữa ăn tối. Nhưng hạnh phúc vốn thật mong manh: khi nó không bị con người hay hoàn cảnh phá huỷ thì lại bị những bóng ma đe doạ. Có thể quý vị còn chưa biết hòn đảo của chúng tôi vốn lắm chuyện bí ẩn. Ma ở đây không giống với lũ ma quỷ phương Bắc của quý vị, nghĩa là chỉ xuất hiện lúc nửa đêm và ban ngày sống ở nghĩa địa đâu. Bọn ma ở đây không thèm khoát tấm choàng trắng và chúng thì có da thịt hẳn hoi. Nhưng chúng nguy hiểm hơn cả những hồn ma người chết, những người ít ra đã từng biết sống, biết đau khổ là thế nào. Những con ma Nereyder ở nơi này vừa trong trắng lại vừa xấu xa, khi thì bảo vệ lúc thì phá huỷ con người. Những vị thần đã chết từ lâu và các bảo tàng chỉ còn giữ lại những cái xác bằng cẩm thạch của họ. Rồi, một buổi sáng tháng Bảy, hai con cừu của cha Panagyotis giở chứng quay cuồng. Nạn dịch lan rất nhanh trong đàn thú và mảnh sân đất nện trước nhà chẳng bao lâu đã biến thành nơi cách ly bầy gia súc bị bệnh. Ngay giữa trưa nóng bỏng Panegyotis một mình đi tìm vị bác sĩ thú y ở bên kia sườn núi Xanh Êli, trong một làng nhỏ cạnh bờ biển. Đến chiều tối hắn vẫn chưa về. Cha Panegyotis rất lo cho hắn; người ta đã sục sạo khắp làng và các thung lũng lân cận, nhưng đều vô ích; suốt đêm đám phụ nữ cầu nguyện tại ngôi nhà thờ trong làng, nơi chỉ là một kho chứa cỏ được thắp sáng bằng vài chục ngọn nến. Tối hôm sau, vào giờ nghỉ, cánh đàn ông ngồi bên bàn ở sân làng trước một ly cà phê, một cốc nước và một thìa mứt, thì thấy hắn, một gã Panegyotis khác lạ, thay đổi tới mức như vừa từ cõi chết trở về. Đôi mắt hắn lấp lánh như chỉ còn tròng trắng, hai tháng sốt rét cũng không thể làm cho hắn vàng khè như thế. Một nụ cười làm méo xệch cặp môi của hắn khiến cho lời nói không thoát ra được. Tuy nhiên, hắn vẫn chưa bị câm hoàn toàn. Những tiếng ngắc ngứ bật ra khỏi miệng hắn như tiếng của một nguồn nước sắp tắt.
Ma Nereyder... Các cô... Nereyder... đẹp lắm... Trần truồng... Người tóc vàng... Tóc vàng.
Đó là những lời duy nhất mà người ta có thể nghe hắn nói. Nhiều lần, trong những ngày tiếp theo, người ta thấy hắn vẫn còn lẩm bẩm một mình: "Tóc vàng... Người tóc vàng..." cứ như hắn đang vuốt ve một tấm lụa. Rồi sau đó lịm tắt. Mắt hắn không còn lấp lánh nữa, cái nhìn trở nên xa vắng và bất động một cách lạ lùng; hắn chiêm ngưỡng mặt trời không chớp mắt; có lẽ hắn đã tìm thấy khoái cảm khi quan sát vầng thái dương vàng chói ấy. Tôi có mặt ở làng trong mấy tuần đầu tiên phát bệnh của hắn: không sốt, cũng chẳng có một triệu chứng gì là cảm nắng hay lên cơn. Cha mẹ hắn đưa hắn đến một tu viện nổi tiếng ở gần đấy để trừ tà; hắn ngoan ngoãn, để mặc người ta muốn làm gì thì làm, nhưng từ lễ tế ở nhà thờ, thuật xông khói hương lẫn những ma thuật của các mụ phù thuỷ trong làng đều không thể tống ra khỏi hắn những nữ thần điên rồ xinh đẹp. Rồi cuộc sống hắn cứ tuần tự trôi đi; hàng ngày hắn vẫn kiên nhẫn tới nơi các nơi ma nữ hiện hình: ở đó có một nguồn nước mà đôi khi những người đánh cá ghé lại lấy nước ngọt, một thung lũng sâu và một nương cây vả, nơi bắt đầu một con đường chạy xuống biển. Người ta nghĩ rằng sẽ thấy trong lớp cỏ gầy những dấu chân phụ nữ, những chỗ cỏ rạp xuống do thân người đè lên. Họ hình dung ra cảnh cậu con trai làng bị tiếng cười nói của phụ nữ đánh động, như người đi săn chợt nghe thấy tiếng vỗ cánh; những cô gái xinh đẹp nâng cánh tay ngà lấm tấm lớp lông tơ vàng ươm chắn ngang ánh mặt trời; bóng lá thấp thoáng trên khuôn ngực trần, cặp vú trắng với đôi núm đỏ hồng chứ không phải màu xanh tím; rồi Panegyotis hôn ngấu nghiến vào tóc họ, hắn có cảm tưởng như đang nhấm nháp mật ong và rạo rực ham muốn khoái lạc. Loài ma Nereyder đã dâng tặng chàng thanh niên cuồng si một thế giới đàn bà khác hẳn với những cô gái trên đảo, và khác biệt với những con vật cái. Các nường đã cho hắn cái mơn man mới lạ, sự mệt mỏi diệu kỳ và lấp lánh hạnh phúc. Người ta đồn rằng hắn vẫn không ngừng gặp các nường vào những trưa nóng nực, lúc những con quỷ đẹp mê hồn ấy lang thang tìm tình yêu: và dường như hắn đã mê tới mức quên cả mặt vị hôn thê, mà mỗi lần gặp nàng hắn đều quay mặt như tránh một con khỉ đột; hắn khạc nhổ khi vợ ông linh mục đi qua khiến bà phải khóc suốt vài tháng mới bình tâm lại. Lũ ma ấy đã làm hắn mụ mẫm đi rồi lôi hắn vào vòng xoáy trò chơi của chúng. Rồi hắn không làm việc nữa; hắn cũng không bận tâm đến thời gian; hắn trở thành kẻ hành khất để có thể ăn bất cứ khi nào hắn đói. Hắn lang thang trên đảo, cố tránh những con đường lớn; hắn chui vào trong nương rẫy và rừng thông ẩm thấp; Người ta bảo rằng một bông hoa nhài cài trên vách đá khô hoặc một viên sỏi trắng đặt dưới gốc cây trắc bá đều là mật hiệu mà hắn có thể giải mã ra thời gian và địa điểm của lần hẹn hò sắp tới với lũ ma xinh đẹp. Những người nông dân cũng kháo nhau rằng hắn không hề già đi; họ khó lòng đoán được hắn đang ở tuổi mười tám hay bốn mươi. Nhưng đầu gối hắn đã run, và hồn phách hắn đã ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại và cả tiếng nói nữa, cũng sẽ không bao giờ xuất hiện trên đôi môi hắn.
Nhưng mà này, Jean, vợ Demetriadis nói một cách bực dọc, ông có cho rằng Panegyotis đã thực sự thấy con ma Nereyder không?
Jean Demetriadis không đáp, ông ta đang bận nhổm người trên ghế để đáp lại lời chào kiêu hãnh của ba cô gái nước ngoài đang đi qua. Ba cô gái Mỹ mặc y phục trắng nhún nhẩy đi trên bến cảng ngập nắng, theo sau là một ông phu khuân vác già gập lưng dưới sức nặng của chiếc bao tải thực phẩm mà các nàng vừa mua ở chợ; giống như những cô bé vừa tan trường, họ nắm tay nhau bước đi. Một cô trong số họ để đầu trần, có mấy cành sim nhỏ gài lên mái tóc hung, còn cô thứ hai đội chiếc mũ rơm rộng vành kiểu Mêhicô, và cô thứ ba đội một chiếc khăn bông, đeo kính râm to che gần kín mặt như một chiếc mặt nạ. Ba cô gái trẻ này muốn định cư ở đảo, họ đã mua một ngôi nhà cách xa đường cái: ban đêm họ dùng đinh ba bắt cá ngay trên con thuyền riêng của họ và vào mùa thu họ đi săn chim cút. Họ không giao du với ai và tự lo liệu lấy cuộc sống; họ sống cách biệt hẳn để tránh những lời dèm pha mà có lẽ họ còn khó chịu hơn cả những điều vu khống. Tôi thử quan sát xem Panegyotis có ném cái nhìn theo mấy cô gái không, nhưng vô ích; đôi mắt hắn lơ đãng, trống vắng và không một chút loé sáng: rõ ràng hắn không thừa nhận những con ma Nereyder của hắn mặc quần áo đàn bà. Đột nhiên, hắn cúi xuống nhanh nhẹn nhặt một đồng drachme mà chúng tôi vừa ném xuống, và tôi nhận thấy có một vật duy nhất trên lớp lông thô của chiếc áo thuỷ thủ mà hắn khoác hờ hững trên vai, một bằng chứng không thể chối cãi được: đó là một sợi tơ, một sợi tơ mảnh của mái tóc vàng óng đàn bà.

Nàng Hồ


Ân Thiên Quan là người ở Lịch Thành, nghèo từ thuở nhỏ, nhưng gan dạ liều lĩnh thì không ai bằng. Trong vùng Quan sống có một toà nhà lầu rất bề thế nguy nga, nhưng thiên hạ đồn rằng nơi ấy thường có ma quỷ hiện lên. Toà nhà lớn này bỏ hoang, cây cỏ mọc xanh um và không ai dám đến ở, thậm chí vào ban ngày sáng tỏ mà cũng không ai dám lai vãng nơi đây.

Nàng Hồ

Một hôm, nhóm bạn học của Quan uống rượu chơi, nhân tửu hứng có người đùa:
Có ai dám vào ngủ một đêm trong toà nhà hoang thì chúng ta sẽ đãi một chầu tiệc lớn.
Ân ngà say nên cười nhạt:
Việc nhỏ ấy có khó gì.
Nói rồi chàng xung phong đến ngủ. Cả bọn đưa Quan đến tận nhà hoang, đứng tại cổng họ đùa:
Anh vào trong đi, bọn tôi chờ ở đây. Nếu thấy ma thì cứ hét to lên nhé.
Quan bình tĩnh đáp:
Nếu gặp cũng chẳng việc gì phải hét lên. Và nếu may gặp ma chồn tôi sẽ bắt một con về cho các bạn xem.
Rồi Quan lững thững đi vào. Trước mắt chàng là đám cỏ lác, cỏ gấu mọc lấp cả lối đi, còn các loại cây gai bụi góc thì chen chúc tràn lan không còn nhìn thấy mặt đất nữa. Đêm ấy trăng thượng tuần sáng tỏ một vùng nên cảnh vật rõ ràng. Quan cứ tiến sâu vào. Chàng đến một toà lầu cao hình như ngày xưa là lầu vọng nguyệt rất tráng lệ. Kiến trúc đẹp quá khiến Quan thích chí muốn trải chiếu ngủ ở đây luôn. Quan sát chung quanh, chàng thấy ngoài vừng trăng lơ lửng phía tây thì không có cái gì lạ. Quan cười thầm và cho rằng lời thiên hạ đồn hão huyền, chỉ doạ những kẻ yếu bóng vía thôi. Chàng bèn phủi sạch một khoảng đất rồi trải thẳng chiếu, kiếm một hòn đá vuông làm gối kê đầu nằm vắt chân chữ ngũ. Chàng ngửa mặt lên trời ngắm sao Ngưu mà nhớ đến chuyện tình Ngưu Lang và Chức Nữ.
Gió hiu hiu mát khiến Quan thiu thiu muốn ngủ, chợt chàng nghe ở dưới lầu hình như có tiếng dép bước dần lên cầu thang. Quan cứ nằm yên giả vờ nhắm mắt nhưng thật ra chàng nhìn thấy tất cả. Ở xa có một người mặc quần áo xanh kiểu gia nhân của nhà giàu cầm một chiếc đèn lồng hình hoa sen. Người này nhìn thấy Quan nằm ngửa ở đấy có vẻ hoảng hốt lùi ngay lại nói với một người khác đi phía sau:
Có người trần gian đằng kia.
Người đi phía sau còn đứng dưới thang lầu hỏi vọng lên:
Ai vậy?
Người hầu đáp:
Không biết.
Tiếng chân bước lên vội vã rồi một người ông già đến gần bên Quan nhìn kỹ chàng rồi buộc miệng:
Ồ! Người này là Quan thượng thư họ Ân. Ngài đang ngủ say nhưng việc mình mình cứ làm. Ngài là người phóng khoáng, chắc không quở trách gì mình đâu.
Cả bọn rủ nhau vào trong. Một lát sau, các cửa nhà lầu mở toang, nhiều người lũ lượt kéo đến. Trong toà nhà ánh nến chiếu sáng như ban ngày.
Quan lấy làm kinh ngạc, không hiểu họ là người hay ma. Chàng bèn giả vờ mê ngủ trở mình lăn một vòng, khẽ hắt hơi. Ông già nghĩ rằng Quan đã thức bèn quỳ xuống nghiêm cẩn:
Tôi có một cô con gái, vào đêm nay làm lễ vu quy cho nó, không ngờ xúc phạm đến thượng quan, dám mong ngài ân thứ.
Quan ngồi dậy đỡ ông lão đứng lên:
Rất tiếc tôi không biết trước hôm nay là ngày vui của gia nữ, do đó không có quà gì mừng lệnh ái, cảm thấy hổ thẹn lắm.
Ông lão vội thưa:
Gặp thượng quan như thấy mặt trời, hào quang của ngài đủ tiêu trừ cả hung tinh ma quái. Nếu ngài gia ân lưu lại đây để dự lễ của con gái lão thì thật là vinh dự làm sao.
Quan vui vẻ nhận lời. Bước vào bên trong xem, chàng thấy nhà cửa trang hoàng vô cùng tráng lệ. Vừa lúc ấy có một người đàn bà đứng tuổi ra xin bái yết, ông lão giới thiệu:
Đây là vợ của tiểu nhân.
Quan đáp lễ. Tiếng nhã nhạc đàn sáo chợt trỗi lên inh ỏi rồi đám gia nhân reo lên:
Đến rồi! Họ đến rồi!
Lão chủ nhà vội chạy ra cửa đón. Quan đứng chờ sau lưng. Một đoàn người xách đèn lồng phất lụa mỏng đưa chú rể vào, tuổi chàng trai khoảng đôi mươi mười tám, vẻ mặt sáng sủa thông minh. Ông lão bắt chú rể làm lễ chào khách quý là Quan trước nhưng Quan ngần ngại chỉ dám nhận nửa lễ. Sau đó cha vợ và con rể làm lễ giao bái. Rồi hai họ mời nhau nhập tiệc. Rồi một đoàn thiếu nữ trẻ đẹp mặt hoa da phấn bước ra, cùng dâng rượu thịt. Sau vài tuần rượu ông lão mới sai gia nhân gọi cô dâu ra.
Quan cũng có ý chờ xem mặt cô dâu, nhưng đợi một lúc không thấy nàng đâu. Ông lão cũng sốt ruột đứng lên vén màn vào nhà trong hối giục. Bấy giờ một bọn người hầu gái mới đỡ cô dâu yểu điệu bước ra. Mùi hương xạ đi trước thơm nức căn phòng, tân giai nhân cất bước vang tiếng khánh vàng đeo đầy trên người, đầu tóc trâm cài lược giắt rất là mỹ lệ. Ông lão sai con gái làm lễ chào Quan xong mới cho lại đứng gần mẹ. Quan nhìn thấy cô dâu nhan sắc diễm tuyệt hiếm có trên đời. Sẵn thấy bàn tiệc bày ra loại chén vàng quý hiếm, Ân nghĩ thầm, chi bằng đem một chén vàng này về làm bằng chứng với bạn bè về câu chuyện kỳ lạ đêm nay, chàng bèn lén bỏ vào ống tay áo một cái rồi giả vờ gục xuống bàn. Mọi người đều tưởng Quan say thật:
Thượng quan qúa chén mất rồi!
Lễ rước dâu gần xong, tiếng nhã nhạc lại nổi lên đưa cô dâu về nhà chồng.
Gia nhân nhà trai xôn xao dọn dẹp bàn tiệc. Quan giả vờ ngủ nên nghe bên tai lao xao có tiếng người kêu mất một cái chén vàng, lùng tìm khắp nơi không thấy, có người đề nghị thử tìm trong người Quan nhưng ông lão gạt đi, cấm ngặt không được xúc phạm đến chàng.
Một lát sau cảnh nhộn nhịp trở nên vắng lặng hẳn. Quan từ từ mở mắt ngồi dậy. Trời vẫn tối mò mà mùi hương xạ vẫn còn quanh quất đâu đây, cả mùi rượu ngon quý vẫn thơm nồng bên cạnh Quan. Nằm chờ chút nữa, chàng đợi trời hửng sáng ở phương đông, mới thong thả đi ra cổng. Sực nhớ đến chén vàng, Quan khẽ đụng vào tay áo thấy còn nặng. Ra ngoài đem chuyện kể với bạn bè, cả bọn đều ngờ đêm qua Quan lẻn về nhà ngủ rồi gần sáng mới vờ vào trong nhà hoang. Nhưng khi Quan đưa chén vàng ra làm chứng, cả bọn mới kinh ngạc rồi đua nhau hỏi chuyện.
Nhiều năm sau Quan đậu tiến sĩ, chàng đổi đến Phì Khâu nhậm chức. Ngày nọ, nhân có thế gia họ Chu trong vùng thết rượu mời Quan. Nhìn những chén vàng chạm khắc đặt trên bàn, Quan bèn hỏi về nguồn gốc bộ chén kỳ lạ ấy, họ Chu thưa:
Bộ này nguyên có tám cái, trước đây ông tổ nhà tôi làm quan khanh ở kinh thành, mời thợ khéo chạm khắc để làm vật gia bảo, truyền đến tôi thì đã mười đời rồi. Tôi chỉ lấy ra khi tiếp khách đại quý. Hôm nay nhân có thượng quan nên tôi mới đem ra, không ngờ phát hiện chỉ còn bảy cái. Vừa rồi tôi nghi bọn gia nhân trộm cắp nhưng nhìn kỹ thấy hòm phong kín vẫn kỹ, dấu bụi không hề suy suyển nên không hiểu tại sao mất được.
Quan cười vui vẻ:
Ông đã có vật báu mà không đủ bộ. Tôi may tình cờ có một cái cũng tương tự xin tặng lại ông.
Chàng sai người về nhà lấy chén vàng đem tới. Họ Chu xem kỹ vô cùng kinh ngạc rồi hôm sau tự thân đến nhà Quan, năn nỉ hỏi nguyên do vì sao có chén vàng họ nhà mình. Quan kể lại đầu đuôi chuyện cũ. Cả hai ngờ rằng ma hồn đã lấy trộm của nhà họ Chu để tổ chức lễ cưới cho con gái nhưng rồi không dám giữ luôn phải đem hoàn trả lại.

Kết Thúc (END)

Ngọn Lửa Báo Thù


Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa thành phố Rakshava, đặt bảng thống kê các đám cháy sang một bên rồi nằm dài trên đi văng, tỏ vẻ mệt mỏi. Ông hút một điếu xì gà Cu Ba và cảm thấy hưng phấn trở lại.

Ngọn Lửa Báo Thù

Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, tiết trời tháng bảy oi bức làm sao!
Qua tấm mành buông kín, ánh sáng ban ngày lờ mờ nhuốm vàng căn phòng, bầu không khí ngột ngạt nóng bức bủa vây một cách vô hình. Tiếng ồn ngoài đường phố vọng vào đều đều, trên các ô cửa, những con ruồi mệt lử cất cánh bay rời rạc và yếu ớt. Tcharnotski phân tích các ghi chép, đối chiếu ngày tháng, xếp loại tư liệu đã tích lũy được trong nhiều năm rồi rút ra kết luận.
Ai có thể nghĩ được rằng các số liệu thống kê lãnh đạm ấy lại là một bức tranh đầy thú vị, đúng vậy, chúng được nghiên cứu một cách có phương pháp và vô cùng kỹ lưỡng. Không ai ngờ được, từ những con số ngày tháng khô khan, thoạt nhìn chẳng cho thấy điều gì, lại có thể rút ra được những kết quả khiến người ta bàng hoàng kinh ngạc, lại giúp ta nhận thấy cái mớ hỗn độn những sự việc tưởng như khó phân biệt ấy, chúng lặp đi lặp lại rất đơn điệu, nhưng tỏ ra rất kỳ diệu!
Để nhìn ra và nắm bắt một điều gì như vậy, cần phải có một linh cảm đặt biệt mà chưa hẳn ai cũng có, cần phải có một "tài đánh hơi" thiện nghệ, và thậm chí cần cả một cấu tạo thể chất đặc biệt. Và Tcharnotski chính là một trong những người như thế, ông tỏ ra hiểu rõ bản thân mình.
Từ nhiều năm qua ông nghiên cứu về các đám cháy, tìm hiểu chúng ở Rakshava và ở bất cứ đâu. Ông thu thập cẩn thận những bài cắt trên báo chí, lục lọi sách báo chuyên nghành, nghiên cứu nhiều bản thống kê so sánh.
Trong các cuộc nghiên cứu đặc biệt như thế, những tấm bản đồ chi tiết về các vùng trên thế giới đã giúp ông rất nhiều; các ngăn tủ trong phòng thư viện của ông xếp đầy những sách rất dày. Ở đó có sơ đồ thủ đô, các thành phố và khu dân cư với tất cả những con đường chằng chịt, những quảng trường và xó xỉnh, những vườn cây và công viên, những công trình xây dựng, nhà thờ và nhà cửa, tóm lại, đó là những sơ đồ vẽ rất tỉ mỉ: dù ai dù mới đến lần đầu, dựa vào bản hướng dẫn ấy cũng dễ dàng định hướng được, như thể đó là thành phố quê nhà của họ vậy. Các sơ đồ ấy được đánh số cẩn thận, được sắp xếp theo, từng vùng, từng huyện, sẵn sàng phục vụ: người chủ chỉ cần đưa tay ra là những tờ hình vuông, hình chữ nhật, bằng vải, bằng ni lông hay bằng giấy cung cấp ngay mọi chi tiết cần tìm.
Tcharnotski cặm cụi hàng giờ trên các tấm bản đồ nghiên cứu. Ông so sánh cách sắp xếp nhà cửa và đường phố của những thành phố khác nhau.
Công việc ấy vô cùng tỉ mỉ, đòi hỏi một sự kiên nhẫn ghê gớm. Không phải lúc nào các kết luận cũng tự nhiên hiện ra, nhiều khi phải chờ rất lâu mới tóm được một kết quả nào đấy. Nhưng Tcharnotski bám chặt như con bọ chét, hễ phát hiện một chi tiết đáng ngờ là ông liền chộp ngay. Ông không cho phép mình nghỉ ngơi hay trì hoãn, sớm muộn gì ông cũng tìm ra được những mắt xích quan trọng.
Sau nhiều năm gian khổ, ông có được những "tấm bản đồ hỏa hoạn" đặc biệt, ngoài ra, ông còn có cái gọi là những biến thể của các đám cháy. Trên các tấm bản đồ có đánh dấu những địa điểm, những công trình xây dựng và nhà cửa từng bị bà hoả viếng thăm, bất kể thiệt hại không đáng kể hay bị thiêu rụi toàn bộ. Còn tên những bản vẽ "biến thể các đám cháy" thì ghi lại những thay đổi diễn ra trong quy hoạch xây dựng sau vụ hoả hoạn; tất cả mọi thay đổi, dù nhỏ nhất, đều được ghi chép cẩn thận.
So sánh các bản đồ hai loại kể trên, dần dần Tcharnotski đi đến những kết luận lý thú. Nếu nối những kiểm xảy ra hoả hoạn ở một vùng nào đó, thì trong tám mươi phần trăm các trường hợp, sẽ hiện lên một đường chung về những sinh vật kỳ lạ, đôi khi chúng giống như những đứa trẻ quái thai, nhưng thường thì, chúng là những con thú nhỏ - những con vượn cáo đuôi dài xoắn lại một cách ngộ nghĩnh, những con sóc nhanh nhẹn thân uốn vồng, những con khỉ trông buồng cười một cách dị dạng.
Tcharnotski lấy từ các sơ đồ ra cả một bộ sưu tập như thế, ông tô màu sặc sỡ rồi đưa chúng vào một cuốn album độc đáo, với dòng chữ ghi ngoài bìa "Album các sinh vật lửa".
Phần hai bộ sưu tập của ông là những "trích đoạn và phác thảo" - trong đấy có nhiều hình kỳ hoặc không rõ ràng và chưa hoàn chỉnh, chỉ có thể phỏng đoán lờ mờ. Đấy là những phác hoạ về các cái đầu, những mẫu thân thể, những khúc tứ chi của loài vật, những cái chân chẻ ngón lông lá. Và lác đác đây đó là những bức hình học, những vết mực nhoè...
Cuốn album của Tcharnotski khiến ta nhớ đến một bộ sưu tập hình ngộ nghĩnh hoặc sáng tác của một hoạ sĩ có óc tưởng tượng mãnh liệt; thích thú với sự quái gở, ông ta đã đưa lên mặt giấy cả một rừng thú vật - những quái thú chỉ tồn tại bên ngoài nhận thức của con người. Nếu ai không hiểu rõ vấn đề lắm có thể sẽ nghĩ rằng mình đang xem một loại tranh kỳ cục vẽ bằng màu đỏ của một hoạ sĩ thiên tài ghi lại những giấc mơ huyễn hoặc. Nhưng nhìn các bức tranh tưởng tượng ấy, người ta cảm thấy rùng mình...
Sau nhiều năm nghiên cứu, con người đặc biệt ấy phát hiện ra thêm một quy luật nhờ vào việc quan sát riêng đã gợi ý: các vụ hoả hoạn thường xảy ra vào thứ năm. Các con số thống kê cho thấy, con quỷ nguy hiểm ấy thường thức giấc đúng vào ngày đó trong tuần.
Và điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Tcharnotski đã tìm ra một giải thích ít nhiều phù hợp. Theo ông, đó là tại bản chất của ngày thứ năm, nó phản ánh ngay trong tên gọi của nó. Bởi từ xa xưa, ngày đó vẫn được coi là ngày của thần Zeus sấm sét, vì thế đã nảy sinh tên gọi ngày ấy ở nhiều thứ tiếng. Không phải tự nhiên mà người Đức gọi thứ năm là ngày sấm sét.
Sau khi đi đến hai kết luận cực kỳ quan trọng ấy, Tcharnotski tiếp tục theo con đường suy lý. Vốn yêu thích triết học và những khái quát siêu hình, trong những giờ nhàn tản ông đã đọc các tác giả thần bí thời kỳ đầu của đạo Cơ đốc và nghiên cứu kỹ những luận văn thời trung cổ mà ông quan tâm.
Sau nhiều năm nghiên cứu các vụ hoả hoạn và những hiện tượng kèm theo, ông nghiêng về ý nghĩ cho rằng ắt hẳn có những tạo vật mà ngày nay chúng ta vẫn chưa biết, một thứ gì đó giống như khâu trung gian giữa con người và loài vật, và chúng hiện ra trong bất kỳ tai hoạ tàn phá nào.
Dẫn chứng cho thuyết của mình, Tcharnotski nêu ra các tín ngưỡng của nông dân và các truyền thuyết cổ xưa ma quái, nàng tiên cá, quỷ lùn, thần lửa và các thiên tinh. Ngày nay, ông đã không một chút nghi ngờ gì về sự tồn tại của sinh vật lửa. Ông cảm thấy chúng hiện diện trong mỗi đám cháy nên ông cố gắng dẹp tan thói quậy phá của chúng. Dần dần, đối với ông, cái thế giới bí ẩn mà mắt thường không nhìn thấy ấy đã trở thành thế giới rất thực như thế giới của ông, tức là thế giới con người. Vậy là, đã nổ ra một cuộc đấu tranh kiên trì và không khoan nhượng mà ông nhận thức rất rõ. Nếu trước kia Tcharnotski đấu tranh với lửa như với một hiện tượng khó chế ngự được, thì giờ đây, ông càng hiểu ra bản chất thật của nó, dần dần ông có thái độ khác đối với nó. Năm này qua năm khác, trong cái sức mạnh huỷ diệt phi lý là đám lửa, ông nhận ra một con thú dữ thích tàn phá mà ông phải tiêu diệt. Rồi sau đó, qua một số dấu hiệu, ông thấy chúng đã nắm bắt được sự thay đổi chiến thuật của ông. Và thế là cuộc chiến hoàn toàn có tính cá nhân.
Phải nói rằng Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hoả ở Rakshava, đúng là người sinh ra cho một cuộc chiến như thế, có lẽ hơn bất kỳ ai khác trên trái đất này.
Trời đã phú cho ông một năng lực đặc biệt, mà dường như đã phân công cho ông vai trò người chế ngự lửa. Cơ thể ông tuyệt đối vô cảm trước lửa; ở giữa ngọn lửa ngùn ngụt, giữa đám cháy hoành hành dữ dội, ông hành động rất an toàn, không bị một vết bỏng nào.
Mặc dù chức vụ giám đốc không yêu cầu ông phải trực tiếp tham gia dập lửa, nhưng ông không tiếc thân mình, luôn là người đầu tiên lao vào đám cháy. Thân hình ông cao lớn và mềm mại. Với mái tóc rậm như bờm sư tử nhô ra dưới vành mũ cứu hoả, ông hiện ra như vị thần hộ mệnh giữa những cuộn khói lửa tua tủa hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm. Đôi khi tưởng như ông chắc đã vào cõi chết, nơi mà không một người lính cứu lửa nào dám bước vào, nhưng - kỳ diệu thay! Từ chốn địa ngục ấy ông lại xuất hiện trở ra, bình an vô sự. Với nụ cười hiền lành và hơi bí ẩn trên gương mặt dũng cảm, ông được rọi sáng bởi những ánh lửa đỏ rực; rồi sau khi hít đầy không khí vào lồng ngực, ông lại xông vào lửa. Đồng nghiệp ông tái mặt khi thấy ông can đảm leo lên những tầng gác ngùn ngụt lửa, trèo lên những ban công đang cháy, liều lĩnh chạy len giữa những khung thép rừng rực nóng.
Một con quỷ! Ông ấy đúng là một con quỷ! - Đám lính cứu hoả thì thầm với nhau, sợ hãi và kính nể nhìn theo vị thủ trưởng của họ.
Chẳng mấy chốc ông có biệt danh "Chịu lửa" và trở thành thần tượng của lính cứu hoả lẫn dân chúng thành phố, Chung quanh ông, người ta thêu dệt nhiều chuyện, trong đó, ông được mô tả như một nhân vật hai mặt - là thượng đẳng thiên sứ Mikhail, đồng thời là con quỷ. Người ta đồn đại rất nhiều về ông, trong đó khiếp sợ và cảm phục xen kẽ nhau. Còn hiện nay, Tcharnotski được coi là vị pháp sư tốt bụng, quen biết với các thế lực bí ẩn. Đối với mọi người, mỗi bước chân, mỗi cử động của ông Chịu Lửa đều chứa đựng ý nghĩa đặc biệt.
Điều khiến mọi người ngạc nhiên hơn cả là tính chất "amiăng" của Tcharnotski. Dường như chúng được truyền sang quần áo ông, do đó y phục cũng không bị cháy trong các vụ hoả hoạn.
Hồi đầu, người ta tưởng khi chữa cháy ông mặc bộ quần áo may bằng loại vải đặc biệt, chịu được lửa, nhưng hoá ra hoàn toàn không phải vậy. Đó là những lần bị kẻng báo động đánh thức giữa đêm đông lạnh giá, ông vội mặc luôn bộ quần áo đầu tiên mà ông tìm thấy ở trạm cứu hoả, rồi khi ra khỏi lửa ông vẫn bình yên vô sự.
Ở địa vị ông, có lẽ người khác đã tận dụng tài năng đặc biệt ấy để kiếm tiền, thí dụ họ sẽ làm thuật sĩ lãng du hoặc một tay đại bịp, nhưng đối với ông, chỉ cần mọi người quý trọng và cảm phục là đủ. Điều duy nhất ông tự cho phép mình là những "thử nghiệm" vô tư trong công việc hoặc đối với những người quen thân khiến họ phải sững sờ. Chẳng hạn, ông đặt trên lòng bàn tay mấy hòn than hồng khoảng mười lăm phút hoặc lâu hơn nữa mà không có dấu hiệu đau đớn gì, đến lúc ông lại vứt than vào lửa, trên tay ông không hề có vết bỏng.
Khả năng truyền "tính chịu lửa" của mình cho người khác cũng gây nhiều thích thú. Chỉ cần ông cầm tay ai, là người đó cũng "chịu lửa" được trong một thời gian nhất định. Một nhóm bác sĩ địa phương chú ý đến ông, họ đề nghị ông "biểu diễn" vài buổi với một số tiền thù lao lớn. Tcharnotski tức giận từ chối và sau đó, trong một thời gian dài ông đã không "thử nghiệm" ngay cả đối với người quen.
Người ta còn kể về ông nhiều chuyện lý thú khác nữa. Một số lính cứu hoả từng phục vụ dưới quyền ông quả quyết rằng trong các đám cháy, ông Chịu Lửa thường phân thân ra làm hai, làm ba: họ nói nhiều lần, họ thấy ông đồng thời ở hai, ba chỗ nguy hiểm nhất giữa đám lửa ngùn ngụt. Kshishtof Slutch, đội trưởng cứu hoả, thề rằng lần nọ, lúc đám cháy đã dịu bớt, anh thấy tận mắt ở mé trong một hốc bán nguyệt có ba thân hình ông Antoni giống hệt nhau, - Chúng nhập vào làm một, còn ông Tcharnotski thì đang thản nhiên xuống cầu thang.
Chẳng ai biết những lời đồn đại ấy thật bao nhiêu và bịa bao nhiêu. Nhưng có một điều chắc chắn - Tcharnotski là một người khác thường và dường như sinh ra là để đấu tranh với hoả hoạn.
Ông đã chiến đấu thật sự và ngày càng quyết liệt. Ông hiểu sức mạnh của mình, năm này qua năm khác ông hoàn thiện các phương pháp tự vệ, tạo nên nhiều chướng ngại trên con đường hoành hành của lửa.
Đối với Tcharnotski, dần dần cuộc đấu tranh ấy trở thành lý tưởng; ông liên tục phát minh ra những phương pháp đáng tin cậy để phòng cháy. Như hôm nọ, vào một buổi trưa tháng bảy nóng nực, ông năm xem những ghi chép mới nhất, phân loại những tài liệu tích luỹ được cho cuốn sách đang viết về các đám cháy và các biện pháp phòng cháy. Ông định viết một cuốn sách lớn, dầy hai tập, kết quả nghiên cứu của ông trong nhiều năm.
Thỉnh thoảng đưa lên miệng điếu xì gà thơm Cuba, Tcharnotski rít một hơi dài và nghĩ về bố cục với các chương cho quyển sách...
Hút nốt điếu thuốc, ông giụi nó vào cái gạt tàn, rồi mỉm cười mãn nguyện, ông đứng dậy.
Không đến nỗi tồi! Ông tự khen mình, hài lòng về những điều ước tính - Có vẻ ổn lắm.
Ông thay quần áo, rồi đến quán cà phê quen chơi cờ...
Vài năm trôi qua, hoạt động của Tcharnotski ngày càng tiến triển. Giờ đây, không chỉ Rakshava biết đến ông. Người ta nhắc đến ông Chịu Lửa cả ở những nơi cách xa thành phố này. Nhiều người tới gặp ông và tỏ lòng khâm phục. Quyển sách của ông về các đám cháy có tiếng vang lớn, và không chỉ trong ngành cứu hoả; chỉ một thời gian ngắn mà nó được tái bản mấy lần.
Lúc hoả hoạn xảy ra ở kho củi thuộc Viteluvka, một thanh xà ngang đang cháy đột nhiên rơi xuống khiến xương quai hàm của ông bị thương nặng; ở hai vụ hoả hoạn khác, trần nhà đổ sụp làm ông bị thương chân và vai; còn hôm Giáng sinh mới rồi, suýt nữa ông mất tay phải: một thanh xà bằng sắt rơi từ nóc nhà xuống chạm một đầu vào ông - chỉ một li nữa là ông nát xương...
Trước những chuyện không may ấy, Tcharnotski tài năng vẫn tỏ ra bình tĩnh.
Tôi còn chịu thua lửa, nên nó mới ném các thanh xà vào tôi, ông thường nói thế, miệng mỉm cười là lạ.
Nhưng thời gian gần đây, các lính cứu hoả dõi theo từng bước của ông và không để ông lao vào lửa quá sâu, nhất là ở những nơi có nguy cơ sập nhà. Tuy nhiên, mối nguy hiểm vẫn rình rập ông thường xuyên, ngay cả ở những nơi tưởng chừng an toàn nhất. Hình như hễ có mặt Tcharnotski là ma quỷ kéo đến: bên cạnh ông bỗng dưng rơi xuống những khúc gỗ chỉ vừa mới bén lửa, những thanh xà trên trần mà lửa còn chưa lan tới, cả những tảng vôi, vữa nặng trịch, to bằng viên đạn đại bác, có khi rơi đúng chỗ Tcharnotski vừa đứng.
Thế mà Tcharnotski vẫn nhếch mép cười thản nhiên và hút xì gà. Song các đồng nghiệp của ông thì càng lo lắng hơn. Cuối cùng họ hiểu rằng ở bên cạnh ông vẫn gặp phải nguy hiểm.
Những chuyện như thế xảy ra trong nhà thủ trưởng của họ nên không ai biết.
Mọi chuyện bắt đầu từ làn khói khét lẹt, ngột ngạt: một ngày nọ, ngôi nhà đầy mùi khét như thể có miếng giẻ rách cháy âm ỉ trong xó nhà. Mùi khó chịu như những làn sóng vô hình toả vào các hành lang, đọng mùi hôi trong các phòng, như một tấm màn nặng nề rủ từ trần nhà xuống. Mùi ấy thấm vào đồ đạc, quần áo, chăn đệm. Quạt máy và hệ thống thông gió đang hoạt động cũng không làm giảm được mùi hôi. Sau đó các cửa ra vào và cửa sổ đều được mở toang dù ngoài trời lạnh âm mười tám độ, cái mùi ghê tởm ấy vẫn không bay đi. Gió và cái rét cũng không xua được nó, nó cứ xộc vào mũi nồng nặc. Ông đã cố gắng tìm ra nguồn gốc mùi ấy nhưng không đi tới đâu, nên cuối cùng ông đành chịu vậy.
Một tháng sau, khi không khí trong nhà đã dịu lại đôi chút, thì một tai hoạ khác ập đến: thán khí. Mấy ngày đầu, còn có thể cho rằng tình trạng này là do đám gia nhân vụng về. Họ đã lơ đãng đóng sớm các lò sưởi, nhưng về sau phải nhận thấy rằng vần đề hoàn toàn không phải vậy, dù cái lò sưởi được quan sát rất cẩn thận, song cái mùi thán khí ngột ngạt vẫn đầu độc không khí ngày một nhiều hơn. Việc thay đổi chất đốt cũng không khá hơn: mặc dù Tcharnotski đã đốt lò bằng củi và không đóng cửa lò, nhưng ban đêm trong nhà vẫn có người bị trúng độc hơi than, còn bản thân ông, sáng dậy thấy đầu nhức buốt và buồn nôn. Sự việc đến mức ông buộc phải đi ngủ nhờ ở chỗ quen chứ không ngủ nhà nữa.
Vài tuần sau, thán khí bớt hẳn, và ông lại thở phào nhẹ nhõm trở về nhà.
Ông không biết tại sao nhà ông gặp nhiều tai biến như thế, nhưng suy nghĩ lại, cuối cùng ông hiểu rằng tất cả chỉ nhằm mục đích: làm cho ông sợ mà chùng xuống nhiệt tình chiến đấu của ông.
Nhưng các quỷ kế như vậy chỉ làm ông tức giận thêm ông bị chạm đến chỗ đau nhất, và ông quyết chiến bằng bất kỳ giá nào.
Hồi ấy, Tcharnotski đang nghiên cứu một hệ thống mới cho máy bơm chữa cháy; ông hy vọng nó sẽ hiệu quả cao hơn tất cả các loại bơm trước đấy. Thứ được dùng để dập tắt lửa sẽ không phải là nước, mà là một chất gas đặc biệt, chất này sẽ bọc kín dày đặc toà nhà bị cháy khiến oxi không lọt vào được nữa: bằng cách ấy, ông có thể dập tắt lửa từ lúc nó mới bắt đầu.
Tôi bảo đảm nó sẽ là một ngọn roi của Trời quất vào các đám cháy, ông hồn nhiên khoe với một kỹ sư ông quen khi chơi cờ. Rất có thể lúc bằng phát minh của tôi được chứng nhận, lửa sẽ không còn gây hại nữa.
Và ông tự hào vân vê bộ ria.
Lúc ấy là giữa tháng giêng: Tcharnotski định hoàn thành đề án chi tiết trong vài tháng rồi gửi lên bộ. Đêm này qua đêm khác, ông cặm cụi trên các bản vẽ, nhiều khi ông ngồi đến tận nửa khuya...
Lần nọ, đang ngồi làm việc lúc nửa đêm như thế ông lơ đãng nhìn Martin, người đầy tớ già đang khều than trong lò ra, và bỗng những mẩu gỗ cháy dở ấy thu hút sự chú ý của ông.
Chậm đã, ông giữ Martin lại ngưỡng cửa. Bác rắc tro than lên tờ báo này cho tôi.
Martin ngạc nhiên nhưng cũng vâng lời chủ.
Tốt lắm. Được rồi, bác về ngủ đi.
Còn lại một mình, Tcharnotski lại quan sát kỹ các hòn than. Đập ngay vào mắt ông là hình dạng các hòn than. Không hiểu lửa cháy thế nào mà các hòn than có đường viền mang hình các chữ cái. Ông kinh ngạc xem xét những đường viền rõ nét ấy; không còn nghi ngờ gì nữa, trước mắt ông là những con chữ lớn bằng than được "gia công" rất khéo.
Một câu đố hóc búa và độc đáo, ông nghĩ rồi tò mò xếp các hòn than thành những kiểu khác nhau. Biết đâu ông xếp được hình cái gì đó?
Rồi, chưa đầy mười lăm phút sau, dưới bàn tay ông xuất hiện các từ "Nung Nóng", "Tia Lửa", "Doạ Nước", "Thổi Khói".
A ha, vui thật - ông lẩm bẩm, ghi lại những cái tên lạ lùng ấy để khỏi quên. Cả một đám lưu manh lửa. Bây giờ tao nghĩ xem nên đặt biệt danh cho bọn mi là gì. Đúng là một cuộc viếng thăm lạ lẫm, nhưng các tấm danh thiếp lại càng lạ hơn. Ông cười nhếch mép rồi cất tờ giấy vào tủ.
Từ hôm ấy, ông dặn Martin ngày nào cũng đem tro than cho ông, và lần nào ông cũng phát hiện những lời nhắn gửi trong đó.
Những lời ấy càng lúc càng gợi tò mò hơn. Sau các tấm danh thiếp là những bức thông điệp từ thế giới bên kia - những câu rời rạc với nội dung răn đe và rồi cả với nội dung doạ nạt.
"Cút đi!", "Để chúng tao yên!", "Chớ đùa với bọn ta!", "Coi chừng đấy!" Các bức thông điệp lửa thường kết thúc như vậy.
Tcharnotski không coi trọng những lời ấy, với chúng ông cảm thấy có cái gì rất hài hước. Ông nghiên cứu và chuẩn bị đánh một đòn chí mạng. Chắc chắn ông sẽ thắng. Cần nói thêm rằng những chuyện bất ngờ, khó chịu thường rình rập ông ở các đám cháy nay không còn nữa, những trò quái quỷ xảy ra ở nhà ông cũng đã chấm dứt.
"Nhưng ngày nào ta cũng phải trao đổi thư từ như ta và chúng quen thân nhau lắm" ông mỉm cười và mỗi buổi sáng xem "những lời nhắn gửi của than lò". - Có lẽ các sinh vật này không biết hướng năng lượng tàn khốc của chúng tới vài điều tồi tệ cùng một lúc. Hiện giờ chúng chuyển sang "thông điệp lửa" nên chưa biết chúng sẽ hành động ra sao. Về chuyện này thì tao gặp may - bọn mi cứ viết đi, càng lâu càng tốt, tao luôn là một gã độc giả trung thành".
Nhưng khoảng đầu tháng hai, "thư từ" bỗng ngưng lại. Một thời gian, các hòn than vẫn còn giống đường viền các mẫu tự, nhưng dù cố mấy, Tcharnotski vẫn không xếp được thành câu có nội dung rõ ràng. Thế là "thư từ" đã cạn kiệt, và cuối cùng, các hòn than không còn có đường viền giống các mẫu tự nữa.
"Thông điệp lửa" đã kết thúc, Tcharnotski kết luận và gạch một gạch đỏ dưới mục "Nhật ký thông điệp lửa".
Trong vòng vài tuần, mọi việc vẫn bình yên. Khoảng thời gian đó, Tcharnotski hoàn chỉnh cấu trúc thiết bị dập lửa bằng hơi gas và bắt đầu lo chuyện lấy bằng chứng nhận. Nhưng công việc nghiên cứu vất vả đã làm ông thấm mệt. Sang tháng ba, ông cảm thấy đuối sức hẳn, thỉnh thoảng ông lại bị chứng toàn thân cứng đờ, hồi xưa ông đã từng bị chứng này do thần kinh có tổn thương. Người ngoài không biết tình trạng của ông, vì các cơn cứng đờ thường xảy ra ban đêm, lúc ông đã ngủ. Thức dậy buổi sáng, ông cảm thấy mệt rã rời như vừa trải qua một chặng đường dài. Phải nói rằng chính ông cũng không nhận thấy điều đó, vì việc chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia diễn ra nhẹ nhàng và hoàn toàn không đau đớn gì, chỉ có điều giấc ngủ trở nên nặng nề hơn. Lúc thức giấc, tuy mệt mỏi nhưng lại nhớ rất rõ những chuyến lãng du trong mơ. Suốt đêm, Tcharnotski leo lên những ngọn núi, thăm các thành phố xa xôi, lang thang qua những miền đất lạ. Sự suy mòn thần kinh làm ông kiệt sức vào buổi sáng hình như là do những chuyến phiêu lưu ban đêm của ông. Và thật kỳ lạ: chính ông cũng giải thích như vậy về sức khoẻ kém dần của mình. Những chuyến đi trong mơ mà ông cảm nhận dường như hoàn toàn có thật.
Nhưng nếu Tcharnotski không tâm sự chuyện đó với ai vì ông bị để ý quá nhiều rồi. Cho người khác biết đời sống thầm kín của tâm hồn mình để làm gì?
Tuy nhiên, nếu gần mọi người hơn, có thể ông sẽ nghe họ bàn tán những gì mà ông sẽ đâm ra lo sợ cho bản thân.
Việc đầu tiên làm ông chú ý là Martin - bây giờ, bác nhìn ông bằng ánh mắt nghi ngờ kỳ lạ và thậm chí còn có vẻ sợ hãi nữa.
Bác ta có cơ sở để nhìn như thế, vì không chỉ một lần, đêm nọ, vào khoảng đầu tháng ba, bác cầm nến đi từ bếp về phòng mình ở ngay sát cạnh phòng ngủ của chủ , bỗng bác thấy bóng Tcharnotski đi xa dần ở cuối hành lang. Hơi ngạc nhiên, Martin quyết định thử kiểm tra xem thật hay đó chỉ là cảm giác mà thôi, bác ta vội vã bám theo sau. Nhưng tới cuối hành lang thì ông chủ biến mất, như ông đã tàng hình vậy.
Martin hoang mang, rón rén bước vào phòng ngủ của chủ và bác thấy Tcharnotski vẫn ngủ trên giường như không có gì xảy ra.
Vài ngày sau, cũng ban đêm, Martin lại thấy ông chủ của mình nhưng lần này là ở cầu thang ông đứng trên bậc thang, cúi người qua tay vịn và nhìn xuống dưới nhà. Martin sởn gai ốc, vội lao tới và kêu lên:
Ông định làm gì thế? Ông hãy biết sợ Chúa Trời, vì như thế là có tội!
Nhưng bác ta chưa kịp chạy đến gần, thì Tcharnotski đã biến mất một cách kỳ lạ, ông ta nhoà đi rồi như thấm vào tường, không một tiếng động. Martin làm dấu thánh rồi không kịp suy nghĩ bác lao vào phòng ngủ của chủ - lạ chưa, cũng như lần nọ, ông chủ đang ngủ say.
Ghê thật! Martin lẩm bẩm. Ma quỷ hiện hình chăng? Mình đâu có say rượu?
Bác định về phòng mình thì bỗng thấy ở cuối phòng có một điều kỳ lạ: phía trên đầu ông chủ có một ngọn lửa đỏ lơ lửng, bập bùng. Về hình dạng, nó giống như bụi cây đang cháy, và hình như những cái vòi rực lửa của nó đang cố vồ tới Tcharnotski.
Lạy Chúa! Martin hét lên và chạy tới con quái vật lửa.
Bụi cây đang cháy đột ngột thu ngay lại những cái lưỡi lửa đang vươn về phía Tcharnotski rồi cuộn thành một cột lửa dày đặc, sau đó lập tức tắt ngấm trước khi phát ra tiếng xèo xèo nho nhỏ.
Trong phòng ngủ khá tối, chỉ có ánh sáng yếu ớt của ngọn nến mà Martin để dưới sàn. Tcharnotski ngủ trên giường, người thẳng ra và cứng đờ như khúc gỗ...
Hôm sau Martin thận trọng nói bóng gió với chủ rằng ông ấy có vẻ mệt mỏi và nên gọi bác sĩ chăng, nhưng Tcharnotski đánh trống lảng bằng một câu đùa.
Hai tuần sau thì tai hoạ xảy ra...
Đêm 28 rạng sáng 29 tháng ba là ngày đáng ghi nhớ đối với người dân trong thành phố. Tcharnotski về nhà rất khuya, mệt rã rời - hôm ấy, đội cứu hoả phải dập một đám cháy lớn ở dãy kho nhà ga. Ông tỏ ra rất dũng cảm, không chỉ một lần coi thường nguy hiểm để cứu mấy nhân viên đường sắt ngủ say trong dãy kho. Về nhà khoảng gần mười giờ, ông để nguyên quần áo nằm lăn ra giường và ngủ như chết.
Những ngày gần đây, lo lắng cho chủ, Martin như một con chó trung thành canh giữ sự yên tĩnh của ông ở phòng bên, bác không tắt đèn, thỉnh thoảng lại ngó sang phòng ngủ của chủ. Đêm ấy bác buồn ngủ quá, mái đầu bạc nặng nề ngả sang vai và cuối cùng gục xuống bàn.
Đột nhiên bác choàng tỉnh vì nghe có tiếng động lạ. Cố rũ đi cơn buồn ngủ, bác giụi mắt và lắng nghe, nhưng tiếng động không lặp lại nữa. Bác chụp lấy chiếc đèn, chạy sang phòng ngủ của chủ. Nhưng than ôi, đã quá muộn. Mở cửa ra, bác thấy lửa bao quanh ông chủ cả một vầng sáng, giống như hàng nghìn cái vòi lửa đang hút chặt vào thân thể ông.
Martin chưa kịp chạy đến giường thì quầng lửa đã chui vào thân thể người đang ngủ, không để lại dấu vết gì cứ như chưa hề có lửa vậy.
Run lập cập, Martin nhìn kỹ ông chủ.
Bất chợt gương mặt Tcharnotski biến đổi một cách kỳ lạ: nó nhăn nhó như thể bị co thắt hay bị động kinh, đến mức khó nhận ra. Như bị một sức mạnh siêu nhiên nhập vào thân thể, Tcharnotski bỗng bật dậy, rú lên một tiếng man dại rồi lao thẳng ra khỏi nhà.
Lúc ấy là bốn giờ sáng, phía trên thành phố, các ảo ảnh ngái ngủ đang đuổi nhau bằng điệu luân vũ vòng tròn, bầy quỷ ác mộng cụp những chiếc cánh hư ảo của chúng lại, chuẩn bị quay về, còn các thiên thần trầm ngâm cúi nhìn những đứa trẻ, họ vội vã đặt lên trán đứa bé nụ hôn từ biệt...
Chân trời phía đông hiện lên những vệt màu tím. Bình minh xám nhạt, run rẩy trước cái lạnh sớm mai, lan dần về phía thành phố. Đàn quạ thức dậy sau một đêm gà gật, bay thành những vòng tròn màu đen phía trên toà thị chính, rồi vừa kêu quàng quạc vừa đậu xuống những cành cây trụi lá. Lũ chó hoang lang thang ban đêm trong các ngõ tối, vội tìm cái ăn ngoài chợ...
Đột nhiên ở nhiều điểm trong thành phố vọt lên những ngọn lửa, lửa như bông hoa nở ra những chiếc cánh đỏ rực nhuốm hồng phía trên các mái nhà, vươn cao lên trời. Chuông nhà thờ đổ từng hồi, sự yên tĩnh của bình minh vỡ tung ra bởi những tiếng kêu, tiếng gào, tiếng hét:
Cháy! Cháy!
Ở ngoài chợ, người ta chạy loạn xạ, những chiếc xe hơi phóng như bay, cứu hoả rú ầm ĩ. Một người mặc đồng phục lính cứu hoả, mái tóc tung bay, tay cầm đuốc đang ra sức len qua đám đông.
Ai đấy nhỉ? Ai?
Bắt lấy nó! Bắt lấy! Nó là kẻ đốt nhà!
Hàng nghìn cánh tay hướng về phía hắn.
Tên đốt nhà! Tên tàn ác! - Đám đông điên cuồng giận dữ gầm lên.
Có ai đó hất ngọn đuốc ra khỏi tay hắn, có ai đó ôm nghiến lấy hắn. Hắn vùng ra, sùi bọt mép, xô ngã những người xung quanh... Cuối cùng hắn bị tóm gọn. Người ta giải hắn trên quảng trường tay hắn bị trói chặt, quần áo hắn rách bươm. Mọi người chằm chằm nhìn vào gương mặt đang được ánh bình minh yếu ớt soi sáng.
Ai thế?
Những người áp giải bất giác buông thõng tay xuống.
Trời, sao thế này?
Mấy người lính canh khiếp sợ, họng khô cứng không nói thành lời.
Sao hắn trông quen thế?!
Trên vai thằng điên đốt nhà lủng lẳng những cái ngù vai bị tuột ra trong lúc ẩu đả, đó là ngù vai của ngài giám đốc sở cứu hoả, còn trên áo sơ mi rách lấp lánh tấm huy chương "Vì có công chữa cháy", loé sáng cây thập tự vàng "Vì lòng dũng cảm". Và gương mặt kia - một gương mặt biến dạng trông như mặt thú, với hai con mắt xếch đỏ ngầu máu!...
Suốt một tháng ròng sau đám cháy khủng khiếp, đám cháy đã thiêu huỷ bảy công trình xây dựng đẹp nhất thành phố ấy, đêm nào Martin cũng nhìn thấy bóng ma Tcharnotski. Bóng kẻ điên trườn vào phòng ngủ, cúi xuống chiếc giường bỏ trống, lục lọi ở đó tìm thân thể - có lẽ để nhập vào xác? Hỡi ôi, hoài công vô ích...
Mãi tới cuối tháng tư, sau khi ông giám đốc sở cứu hoả bị nhốt ở bệnh viện của bác sĩ Zhegota, ông trong tình trạng mất trí nhớ và đã nhảy qua cửa sổ tầng gác xuống đất rồi chết tại chỗ. Từ lúc ấy bóng ma của ông mới không trở về nơi chốn cũ nữa...
Nhưng mãi đến nay người ta vẫn kể cho nhau nghe chuyện hoang đường về hồn của ông Chịu Lửa: nó đã để lại thân xác của nó trong giấc ngủ, rồi không quay về được nữa - vì các sinh vật lửa đã chiếm mất. 

Sự Báo Thù Của Các Sinh Vật Lửa


Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa thành phố Rakshava, đặt tờ thống kê các đám cháy sang một bên rồi mệt mỏi nằm dài ra trên đi văng, khoan khoái hút điếu xì gà Cuba.

Sự Báo Thù Của Các Sinh Vật Lửa

Bấy giờ là khoảng hơn bốn giờ chiều, tiết trời tháng bảy nóng nực.
Qua tấm mành buông kín, ánh sáng ban ngày mờ mờ nhuốm vàng căn phòng, bầu không khí oi bức ngột ngạt như cuộn lên thành những làn sóng vô hình. Tiếng ồn ngoài đường phố như ngái ngủ vì nóng nực vọng vào đều đều, trên các ô cửa sổ, những con ruồi mệt lử bay vo vo rời rạc và yếu ớt. Tcharnotski phân tích các ghi chép, đối chiếu các ngày tháng, xếp loại những tư liệu đã tích lũy được trong nhiều năm, rút ra các kết luận.
Ai có thể nghĩ ngợi được rằng từ các số liệu thống kê lãnh đạm lại hiện lên một bức tranh thú vị đến thế, mà tất cả chỉ vì chúng được nghiên cứu một cách có phương pháp và cực kỳ kỹ lưỡng. Ai mà ngờ từ những con số ngày tháng khô khan thoạt nhìn chẳng nói lên điều gì, lại có thể lấy ra được những kết quả khiến người ta bàng hoàng cả người, lại giúp ta nhận thấy trong mớ hỗn độn các sự việc tưởng như khó phân biệt, lặp đi lặp lại rất đơn điệu những hiện tượng kỳ lạ đến thế!
Nhưng để nhìn ra một điều gì như vậy, để nắm bắt được một điều gì như vậy cần phải có một linh cảm đặc biệt, và thậm chí có lẽ cần cả một cấu tạo có thể chất đặc biệt. Hiển nhiên Tcharnotski chính là một trong những người như thế và ông hiểu rất rõ điều đó.
Đã nhiều năm ông nghiên cứu về các đám cháy, tìm hiểu chúng ở Rakshava và ở bất cứ đâu, thu nhập hết sức cẩn thận các bài cắt ở báo chí, lục lọi sách báo chuyên ngành, xem nhiều bản thống kê so sánh.
Trong các cuộc nghiên cứu khác thường, những tấm bản đồ chi tiết hầu hết các vùng trên thế giới đã giúp ích cho ông rất nhiều; các ngăn tủ trong phòng thư viện của ông xếp chặt những cuốn sách dày cộp. Ở đó có sơ đồ các thủ đô, các thành phố và khu dân cư với tất cả những phố, những ngõ chằng chịt, những quảng trường và xó xỉnh, những vườn cây và công viên, những công trìng xây dựng, nhà thờ và nhà cửa, tóm lại, đó là những sơ đồ vẽ rất tỉ mỉ: bất kỳ ai dù mới đến lần đầu, dựa vào bảng hướng dẫn ấy cũng dễ dàng định hướng được, như thể đó là thành phố quê hương vậy. Các sơ đồ ấy đều được đánh số cẩn thận, được sắp xếp theo từng huyện, từng vùng, saÜn sàng phục vụ: chủ nhân chỉ cần đưa tay ra là những tờ trình vuông và hình chữ nhật, bằng vải, bằng ni lông hay bằng giấy cung cấp ngay mọi chi tiết muốn tìm.
Tcharnotski cắm cúi hàng giờ trên các tấm bản đồ, nghiên cứu và so sánh cách sắp xếp nhà cửa và đường phố cảu những thành phố khác nhau.
Công việc ấy cực kỳ tỉ mẩn, đòi hỏi một sự kiên nhẫn ghê gớm. Không phải bao giờ các kết luận cũng tự nhiên bật ra, nhiều khi phải chờ đợi rất lâu mới tóm được một kế quả nào đó. Nhưng Tcharnotski bấu chặt như con ve, con bọ chét. Hễ thấy một chi tiết ngờ ngợ, là ông bám riết ngay lấy, rồi không cho phép mình nghỉ ngơi trì hoãn, sớm muộn ông cũng tìm ra được những khâu trước đó hoặc những câu tiếp theo.
Sau nhiều năm gian khổ, ông đã có được những "tấm bản đồ hỏa hoạn" đặc biệt, ngoài ra, ông còn có được cái gọi là những "biến thể của các đám cháy". Trên các tấm bản đồ có đánh dấu những nơi, những công trình xây dựng và nhà cửa, từng bị hỏa hoạn, bất kể thiệt hại không đáng kể hay là bị thiêu rụi hoàn toàn. Còn trên những bản vẻ gọi là "biến thể các đám cháy" thì ghi lại những thay đổi diễn ra trong quy hoạch xây dựng sau vụ hỏa hoạn; tất cả mọi thay đổi, dù nhỏ nhất, đều được ghi lại cẩn thận.
So sánh các tấm bản đồ hai loại kể trên, dần dần Tcharnotski đi đến những kết luận lý thú. Nếu nối những điểm xảy ra hỏa hoạn ở một vùng nào đó, thì trong tám mươi phần trăm các trường hợp, sẽ hiện lên đường viền những sinh vật kỳ lạ, đôi khi chúng giống như những đứa trẻ quái thai, nhưng thường thường, đó là hình những con thú nhỏ thú vị, những con vượn cáo đuôi dài xoắn vặn rất ngộ, những con sóc nhanh nhẹn thân uốn vòng, những con khỉ trông buồn cười đến mức dị dạng.
Tcharnotski lấy từ trong các sơ đồ ra cả một bộ sưu tập như thế, ông tô màu sặc sỡ rồi đưa chúng vào một cuốn anbom độc đáo, chắc hẳn không ai có, ngoài bìa đề dòng chữ "Anbom các sinh vật lửa".
Phần hai bộ sưu tập của ông là những "trích đoạn và phác thảo", rất nhiều những hình kỳ cục không rõ ràng, chu tuyến chưa hoàn chỉnh, chỉ có thể lờ mờ phỏng đoán. Ở đây phác họa những cái đầu, những mẫu thân thể, những khúc chân tay, những cái cẳng tẽ ngón lông lá, đây đó còn hiện lên những hình hình học, những hình như vết mực nhòe hoặc như một đám những con thủy túc nhộn nhạo.
Cuốn anbom của Tcharnotski khiến ta nhớ tới một bộ sưu tập những hình ngộ nghĩnh hoặc sáng tác của một họa sĩ có óc tưởng tượng mãnh liệt; thích thú với sự quái dị, ông đưa lên mặt giấy trắng cả một đám những tạo vật như báo điềm gở, những quái vật chỉ tồn tại bên ngoài lương tri con người. Ai không hiểu rõ vấn đề lắm có thể sẽ nghĩ rằng mình đang xem loạt tranh kỳ cục vẽ bằng màu đỏ của một họa sĩ thiên tài ghi lại những giấc mơ huyền hoặc. Nhưng nhìn một số bức tranh tưởng tượng ấy, người ta sởn gai óc...
Sau nhiều năm dài, nhà nghiên cứu độc đáo phát hiện ra thêm một quy luật nhờ các quan sát viên của ông gợi ý cho: các vụ hỏa hoạn thường xảy ra vào thứ năm. Các con số thống kê xác nhận con quỷ ác hại ấy thường thức dậy chính vào ngày đó trong tuần.
Và điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Thậm chí Tcharnotski còn tìm ra một cách giải thích ít nhiều phù hợp. Theo ông, đó là tại bản chất của ngày thứ năm, được phản ánh ngay trong tên gọi tượng trưng của nó. Bởi từ xưa, ngày đó vẫn được coi là ngày của thần Zeus sấm sét, và do vậy nảy sinh tên gọi ngày ấy ở nhiều thứ tiếng. Không phải bỗng dưng chủng tộc Đức gọi thứ năm là ngày sấm sét: Donnerstag và Thursday, Agiovedi, Juever và Jeudi, với sức mạnh la tinh thực sự, lẽ nào nghe không mang máng tên thần Jupiter?
Sau khi đi đến hai kết luận cực kỳ quan trọng ấy, Tcharnotski tiến tiếp theo con đường suy lý. Vốn yêu thích triết học và những khái quát siêu hình, trong những giờ rảnh rỗi ông đọc các tác giả thần bí thời kỳ đầu Cơ đốc giáo và nghiền ngẫm kỹ những luận văn thời trung cổ mà ông quan tâm.
Sau nhiều năm nghiên cứu các vụ hỏa hoạn và những hiện tượng kèm theo, ông nghiêng về ý nghĩ cho rằng chắc hẳn có những tạo vật cho tới nay chúng ta chưa biết, một thứ gì đó đại loại như khâu trung gian giữa con người và loài vật, và chúng lộ ra trong bất kỳ tai họa tàn phá nào.
Dẫn chứng cho thuyết của mình, Tcharnotski nêu ra các tín ngưỡng của nông dân và các truyền thuyết cổ xưa ma quái, nàng tiên cá, quỷ lùn, thần lửa và các thiên tinh. Ngày nay, ông đã không còn chút nghi ngờ nào về sự tồn tại của các sinh vật lửa. Ông cảm thấy chúng có mặt ở mỗi đám cháy cho nên ông gắng sức đè bẹp thói càn bậy của chúng. Dần dần, đối với ông, cái thế giới bí mật mắt thường không trông thấy ấy trở thành một thế giới cũng thực như thế giới của bản thân ông, tức là thế giới con người. Và thế là nổ ra một cuộc đấu tranh kiên trì và không khoan nhượng, giờ đây hoàn toàn đã được nhận thức rõ. Nếu trước kia Tcharnotski đấu tranh với lửa như với một hiện tượng mù quáng không kìm lại được, thì bây giờ, càng hiểu ra bản chất thực của nó, ông dần dần có thái độ khác với nó. Năm này qua năm khác, trong cái sức mạnh hủy diệt phi lý là đám lửa, ông đã nhận ra một con thú dữ ác ý, ham tàn phá, mà ông phải thanh toán. Rồi sao đó, qua một số dấu hiệu, ông thấy phía địch đã nắm bắt được sự thay đổi trong chiến thuật của ông. Và thế là cuộc chiến tranh đã mang tính chất cá nhân.
Phải nói rằng Antoni Tcharnotski, giám đốc sở cứu hỏa ở Rakshava, đúng là người sinh ra cho một cuộc chiến tranh như thế, có lẽ hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này.
Bản thân thiên nhiên phú cho ông những năng lực đặc biệt dường như đã phân công cho ông vai trò người chế ngự lửa. Thân thể ông tuyệt đối không cảm thấy lửa; ở giữa ngọn lửa ngùn ngụt, giữa đám cháy hoành hành dữ dội, ông hoạt động hết sức an toàn, không bị một vết bỏng nhỏ nào.
Mặc dù chức vụ giám đốc không yêu cầu ông phải trực tiếp tham gia dập lửa, nhưng không tiếc thân mình, luôn là người đầu tiên lao vào đám cháy. Thân hình ông, cao lớn và mềm mại, mái tóc rậm như bờm sư tử nhô ra dưới chiếc mũ cứu hỏa, nổi cao lên như vị thần hộ mệnh giữa những cuộn khói lửa tua tủa hàng ngàn cái nọc đỏ lừ. Đôi khi tưởng như chắc chắn đi vào cõi chết, nơi mà không một người lính cứu hỏa nào dám thò mũi vào, nhưng, kỳ diệu chưa! từ chốn địa ngục ấy ông lại xuất hiện bình an vô sự, với nụ cười hiền lành và hơi bí ẩn trên gương mặt dũng cảm, rọi sáng bởi những ánh lửa đỏ rực; rồi sau khi hít đầy không khí vào lồng ngực nóng bỏng, ông lại xông vào lửa. Bạn bè ông tái mặt khi ông cực kỳ can đảm leo lên những tầng gác ngùn ngụt lửa, trèo lên những ban công đang cháy, liều lĩnh chạy len lỏi giữa những khung thép nóng giãy.
- Một con quỷ! Ông ấy đúng là một con quỷ! Đám lính cứu hỏa thì thầm với nhau, khiếp hãi và kính nể nhìn theo thủ trưởng của họ.
Chẳng bao lâu ông có biệt danh "Chịu Lửa" và trở thành thần tượng của lính cứu hỏa và dân chúng thành phố. Xung quanh ông, người ta thêu dệt nhiều chuyện, trong đó, ông được mô tả như một nhân vật hai mặt, là thượng đẳng thiên sứ Mikhail, đồng thời là con quỷ. Về ông có nhiều lời đồn đại, trong đó khiếp sợ và cảm phục xen kẽ nhau một cách kỳ lạ. Còn hiện nay, Tcharnotski được coi là một pháp sư tốt bụng có quen biết các thế lực bí ẩn. Đối với mọi người, mỗi bước chân, mỗi cử chỉ của ông Chịu Lửa đều chứa đựng ý nghĩa đặc biệt.
Điều khiến mọi người ngạc nhiên hơn cả là tính chất "amiăng" của Tcharnotski dường như được truyền sang quần áo ông, bởi chúng cũng không bị cháy trong các vụ hỏa hoạn.
Hồi đầu, người ta tưởng khi chửa cháy ông mặc bộ quần áo may bằng loại vải đặc biệt, chịu được lửa, nhưng hóa ra hoàn toàn không phải thế. Đó là những lần bị kẻng báo động đánh thức giữa đêm đông giá lạnh, ông vội vã mặc luôn bộ quần áo đầu tiên ông trông thấy ở trạm cứu hỏa, mà khi ra khỏi lửa ông vẫn bình yên vô sự.
Ở địa vị ông, giá thử người khác thì đã tận dụng tài năng đặc biệt đó để kiếm tiền, ví như sẽ làm thuật sĩ lãng du hoặc một tay đại bịp, nhưng đối với ông Antoni chỉ cần mọi người quý trọng và cảm phục là đủ. Điều duy nhất ông tự cho phép mình là những "thử nghiệm" vô tư trong phạm vi đồng nghiệp hoặc những người quen thân làm cho khán giả phải sững sờ. Chẳng hạn, ông đặt trên lòng bàn tay mấy hòn than hồng khoảng mười lăm phút hoặc lâu hơn nữa mà không có dấu hiệu đau đớn gì, đến lúc ông lại vứt than vào lửa, trên tay ông không hề có vết bỏng.
Khả năng của ông truyền "tính chịu lửa" của mình cho người khác cũng gây nhiều thích thú. Chỉ cần ông cầm tay ai, là người đó cũng "chịu lửa" được một khoảng thời gian nhất định. Một nhóm bác sĩ địa phương chú ý đến ông, họ đề nghị ông "biểu diễn" vài buổi với một số tiền thù lao lớn. Tcharnotski tức giận từ chối và sau đó, một thời gian dài ông không trình bày "thử nghiệm" ngay cả trong phạm vi hẹp.
Người ta còn kể về ông nhiều chuyện hết sức lý thú khác nữa. Một số lính cứu hỏa từng phục vụ dưới quyền ông không ít năm đã đem các thánh thần ra mà cam đoan rằng trong các đám cháy, ông Chịu Lửa thường phân thân ra làm hai, làm ba: họ kể rằng nhiều lần, họ thấy ông đồng thời ở hai, ba chỗ nguy hiểm nhất giữa đám lửa ngùn ngụt. Kshishtof Slutch, đội trưởng cứu hỏa, thề rằng một lần, khi đám cháy đã dịu bớt, anh ta tận mắt thấy ở mé trong một hốc bám người còn nguyên vẹn có ba thân hình ông Antoni giống hệt nhau, chúng nhập vào nhau làm một, còn ông Tcharnotski thì đang thản nhiên xuống cầu thang.
Chẳng ai biết trong những lời đồn đại ấy có bao nhiêu thật, bao nhiêu bịa. Nhưng một điều chắc chắn, Tcharnotski là một người khác thường và dường như sinh ra là để đấu tranh với hỏa hoạn.
Và ông đã chiến đấu thực sự, ngày càng quyết liệt, ông hiểu sức mạnh của ông, năm này qua năm khác ông hoàn thiên các phương pháp tự vệ, dựng ngày càng nhiều chướng ngại trên con đường hoành hành của lửa.
Đối với Tcharnotski, dần dần cuộc đấu tranh ấy trở thành ý nghĩa cuộc đời; ông liên tục phát minh ra những phương pháp đáng tin cậy để phòng cháy. Như hôm nay, buổi trưa tháng Bảy nóng nực này chẳng hạn, ông nằm xem những ghi chép mới nhất, phân loại những tài liệu tích lũy được cho cuốn sách đang viết về các đám cháy và các biện pháp phòng cháy. Ông đang định viết một cuốn sách lớn; hai tập, kết quả nghiên cứu của ông trong nhiều năm.
Chốc chốc lại rít một hơi điếu xì gà thơm Cuba, Tcharnotski ngẫm nghĩ bố cục cuốn sách và trình tự các chương...
Hút nốt điếu thuốc, ông dụi nó vào cái gạt tàn, rồi mỉm cười mãn nguyện, ông đứng dậy.
- Không đến nỗi tồi! Ông tự khen mình, hài lòng về những điều ước tính. Có vẻ ổn lắm.
Ông thay quần áo, rồi đến quán cà phê yêu thích chơi cờ...
Vài năm trôi qua. Hoạt động của Tcharnotski ngày càng tiến triển. Giờ đây, không chỉ Rakshava biết đến ông. Người ta nói tới ông Chịu Lửa cả ở những nơi xa thành phố này. Nhiều người đến gặp ông và tỏ lòng khâm phục ông. Cuốn sách của ông về các đám cháy có tiếng vang lớn, và không chỉ trong ngành cứu hỏa; trong một thời gian ngắn, nó đã được in lại mấy lần.
Nhưng không phải mọi việc đều suôn sẻ. Trong khi trực tiếp tham gia chữa cháy, đã mấy lần ông bị thương.
Hôm cháy kho củi ở Viteluvka, một thanh rầm đang cháy đột nhiên rơi xuống khiến xương quai xanh của ông bị thương nặng; ở hai vụ hỏa hoạn khác, trần nhà đổ sụp làm ông bị thương chân và vai; còn hôm Giáng sinh mới rồi, suýt nữa ông bị mất tay phải; một thanh xà bằng sắt rơi từ tít trên nóc xuống chạm một đầu vào ông, chỉ một ly nữa là ông nát xương...
Trước những chuyện không may ấy, Tcharnotski cừ khôi cực kỳ bình tĩnh.
- Ta còn chịu thua lửa, nên nó mới ném các thanh xà vào ta, ông thường nói thế, miệng mỉm cười khinh khỉnh.
Nhưng thời gian gần đây, các lính cứu hỏa dõi theo từng bước của ông và không để ông lao vào lửa quá sâu, ít nhất là những chỗ có nguy cơ sập nhà. Tuy nhiên, mối nguy hiểm vẫn rình rập ông thường xuyên đến mức kỳ lạ, cả ở những nơi tưởng như an toàn nhất. Hình như hễ cứ có mặt Tcharnotski là ma quỷ kéo đến: bên cạnh ông bỗng dưng rơi xuống những khúc gỗ chỉ vừa mới bén lửa, những thanh xà trên trần lửa còn chưa lan tới, cả những tảng vôi, vữa nặng trịch, to bằng viên đại bác, có khi rơi đúng chỗ Tcharnotski vừa đứng.
Còn Tcharnotski chỉ nhếch mép cười, thản nhiên hút xì gà. Thế nhưng các bạn bè của ông băn khoăn cau mày và sợ hãi tránh ông cho xa. Rốt cuộc họ đã hiểu ra rằng ở bên cạnh ông không phải là không nguy hiểm.
Cũng đã xảy ra vài sự việc thuộc loại ấy, nhưng ở trong nhà sếp của họ, nên không ai biết.
Tất cả mọi chuyện bắt đầu từ làn khói khét lẹt, ngột ngạt: một ngày nọ, ngôi nhà tràn ngập mùi khét như thể có miếng giẻ rách cháy âm ỉ ở xó nhà. Mùi khó chịu như những lớp sóng vô hình lan tỏa váo các hành lang, đọng mùi hôi trong các phòng, như một tấm màn nặng nề rủ từ trên trần xuống. Mùi ấy thấm vào đồ đạc, quần áo, chăn đệm. Quạt máy và hệ thống thông gió có hoạt động cũng không ăn thua. Và mặc dù các cửa ra vào và cửa sổ đều mở toang hầu như suốt ngày, mà đó là lúc ngoài trời lạnh âm mười tám độ, cái mùi ghê tởm ấy vẫn không bay đi. Gió lùa và giá lạnh cũng không xua được nó, nó cứ xộc vào mũi nồng nặc. Mọi cố gắng tìm ra nguồn gốc mùi ấy đều không đi tới đâu, nên đành chịu vậy.
Cuối cùng, một tháng sau, khi không khí trong nhà đã khá lên đôi chút, thì lại xảy ra một tai họa khác: thán khí. Mấy ngày đầu, còn có thể đổ tình trạng này là do đám gia nhân vụng về, vì lơ đãng đã đóng sớm các lò sưởi, nhưng về sau phải công nhận vấn đề hoàn toàn không phải ở đó, dù các lò đã được theo dõi rất cẩn thận, mùi thán khí ngột ngạt vẫn đầu độc không khí ngày một nhiều hơn. Việc thay đổi chất đốt cũng không ăn thua: mặc dù Tcharnotski đã cho đốt lò bằng củi và không đóng cửa lò nữa, ban đêm trong nhà vẫn có người bị trúng độc hơi than, còn bản thân ông, sáng dậy thấy đầu nhức như búa bổ và buồn nôn. Sự việc đến mức ông buộc phải đi ngủ nhờ ở người quen chứ không ngủ nhà nữa.
Vài tuần sau, thán khí bớt hẳn, và ông lại thở phào nhẹ nhõm trở về nhà.
Ông không biết ngay tại sao nhà ông gặp nhiều tai biến như thế, nhưng lật đi lật lại vấn đề, cuối cùng ông hiểu ra rằng ẩn sau tất cả những cái đó là một mục tiêu: làm cho ông sợ, hạ nhiệt tình chiến đấu của ông.
Nhưng các quỷ kế như vậy chỉ đổ thêm dầu vào lửa, ông bị chạm đến chỗ đau nhất, và quyết chiến thắng bằng bất kỳ giá nào.
Hồi ấy, Tcharnotski đang nghiên cứu một hệ thống mới cho bơm chữa cháy; ông hy vọng nó sẽ đoạt hiệu quả cao hơn tất cả các loại bơm trước đây. Thứ được dùng để dập tắt lửa sẽ không phải là nước, mà là một chất gas đặc biệt, chất này sẽ bọc kín dày đặc tòa nhà bị cháy khiến ôxi không lọt vào được nữa: bằng cách ấy, ông có thể dập tắt lửa từ lúc nó mới manh nha.
- Tôi đảm bảo đó sẽ là một ngọn roi của Trời đối cới các đám cháy, ông hồn nhiên khoe với một kỹsư ông quen khi chơi cờ. Rất có thể khi bằng phát minh của tôi được chứng nhận, lửa hầu như sẽ không còn gây hại nữa.
Và ông tự mãn vân vê bộ ria.
Bấy giờ là quãng giữa tháng Giêng, Tcharnotski định hoàn thành đề án chi tiết trong vài ba tháng rồi gửi lên bộ. Tối này qua tối khác, ông cặm cụi trên các bản vẽ, nhiều khi ông ngồi đến tận nửa đêm...
Một lần, đang ngồi làm việc lúc nữa đêm như thế, ông lơ đãng nhìn Martin, người đầy tớ già, kều than trong lò ra, và bỗng dưng mẩu gỗ cháy dở ấy thu hút sự chú ý của ông.
- Gượm đã, ông giữ Martin lại ở ngưỡng cửa. Bác rắc tro than lên tờ báo này cho tôi.
Martin hơi bối rối, làm theo lời ông chủ.
- Thế! Tốt rồi. Thôi, bác về ngủ đi.
Còn lại một mình, Tcharnotski một lần nữa nhìn kĩ các hòn than. Đập ngay vào mắt ông là hình dạng các hòn than. Không hiểu lửa cháy thế nào mà các hòn than có đường viền mang hình các chữ cái. Ông kinh ngạc xem xét những đường viền rõ nét ấy; không còn nghi ngờ gì nữa, trước mắt ông là những con chữ lớn bằng than được "gia công" rất khéo.
Một câu đố hóc búa độc đáo, ông nghĩ và tò mò xếp các hòn than hết kiểu này đến kiểu nọ. Biết đâu ông xếp được chúng thành cái gì đó?
Thế rồi chưa đầy mười lăm phút, dưới bàn tay ông đã xuất hiện các từ: "Nung Nóng", "Tia Lửa", "Dọa Nước", "Thổi Khói".
- Cái hội này vui ra phết, ông lẩm bẩm, ghi lại những cái tên lạ lùng ấy cho khỏi quên, đầy đủ thành phần bọn lưu manh lửa. Bây giờ ta hãy xem nên đặt biệt danh cho bọn mi như thế nào. Đúng là một cuộc viếng thăm độc đáo, nhưng các tấm danh thiếp lại càng độc đáo hơn.
Nhếch mép cười, ông cất tờ giấy vào tủ.
Từ hôm ấy, ông dặn Martin ngày nào cũng đem tro than cho ông, và lần nào ông cũng phát hiện trong đó những lời nhắn gửi.
Những lời ấy ngày càng gợi tò mò hơn. Sau các bức danh thiếp là những bức thông điệp từ thế giới bên kia, những câu rời rạc với nội dung răn đe và rồi cả với nội dung dọa nạt.
"Cút đi!", "Để chúng tao yên!", "Chớ đùa với bọn ta!", "Coi chừng đấy!". Các bức thông điệp lửa thường kết thúc như vậy.
Tcharnotski không coi trọng những lời ấy, với chúng ông có thái độ hài hước. Say sưa nghiên cứu ông xoa xoa tay và chuẩn bị đánh một đòn chí mạng. Chắc chắn ông sẽ thắng. Cần nói thêm rằng mọi chuyện bất ngờ khó chịu vẫn rình rập ông ở các đám cháy nay không lặp lại nữa, những trò ác xảy ra ở nhà nay cũng chấm dứt.
"Nhưng ngày nào ta cũng phải trao đổi thư từ như ta và chúng quen thân nhau vậy, ông mỉm cười, sáng sáng xem những lời nhắn gửi của than lò". Có lẽ các sinh vật này không biết hướng năng lượng ác độc của chúng tới vài điều xấu xa cùng một lúc. Hiện giờ chúng chuyển sang fire message, cho nên chưa thấy trước được sẽ có gì khác. Về mặt này thì ta gặp may, bọn mi cứ viết đi, càng lâu càng tốt, ta bao giờ cũng là một độc giả không vô ơn.
Nhưng quãng đầu tháng Hai, "thư từ" bỗng ngưng lại. Một thời gian, các hòn than vẫn còn giống đường viền các chữ cái, nhưng dù cố mấy, Tcharnotski cũng không xếp được thành từ nào ít nhiều hiểu được; ông chỉ xếp được thành mấy kết hợp phụ âm vô nghĩa hoặc những chuỗi dài nguyên âm. Rõ ràng "thư từ" đã cạn kiệt, và cuối cùng, các hòn than không còn có đường viền giống các chữ cái nữa.
"Fire message" đã chết, Tcharnotski kết luận và vạch một vạch đỏ dưới mục "Nhật ký thông điệp lửa".
Trong vòng một, hai tuần, mọi chuyện êm ả. Khoảng thời gian đó, Tcharnotski hoàn chỉnh cấu trúc thiết bị dập lửa bằng hơi gas và bắt đầu lo chuyện lấy bằng chứng nhận. Nhưng công việc nghiên cứu vất vả đã làm ông mệt lả, sang tháng Ba, ông cảm thấy sức đuối đi rất nhiều, thỉnh thoảng ông lại cảm thấy toàn thân cứng đờ, hồi xưa ông đã từng bị chứng này do có tổn thương thần kinh. Người ngoài không biết tình trạng của ông, vì các cơn cứng đờ thường xảy ra ban đêm, trong giấc ngủ. Thức giấc buổi sáng, ông cảm thấy rã rời như vừa đi một chặng đường dài. Phải nói rằng chính ông cũng không nhận thấy những cơn đó, vì sự chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia diễn ra nhẹ nhàng và hoàn toàn không đau đớn gì, chỉ có điều giấc ngủ trở nên nặng nề hơn khi dần dần từ giấc ngủ bình thường sang giấc ngủ cứng đờ. Lúc thức giấc, tuy mệt mỏi nhưng ông lại nhớ lại được rất rõ và rất sống động những chuyến lãng du trong mơ. Suốt đêm, Tcharnotski leo các ngọn núi, thăm các thành phố xa xôi, lang thang trên các miền đất lạ. Sự suy mòn thần kinh làm ông kiệt sức lúc ban sáng hình như chính là tại các chuyến phiêu bạt ban đêm của ông. Và thật kỳ lạ: chính ông cũng giải thích như vậy về sức khỏe yếu kém của ông. Các chuyến đi trong mơ được ông cảm nhận như một điều gì đó hoàn toàn hiện thực.
Nhưng Tcharnotski không tâm sự chuyện đó với ai, vì chẳng cần thế, ông cũng đã bị để ý quá nhiều rồi. Cho người khác biết đời sống thầm kín của tâm hồn mình để làm gì?
Tuy nhiên, nếu gần gũi mọi người hơn, có thể ông sẽ nghe họ xì xào những gì, và chắc chắn ông sẽ lo lắng cho bản thân ông.
Việc đầu tiên là ông chú ý đến Martin, bây giờ, bác ta nhìn ông chủ với một thái độ nghi ngờ kỳ lạ và thậm chí còn có vẻ sợ hãi.
Bác ta có cơ sở như vậy, và không chỉ một lần. Một đêm khuya vào quãng đầu tháng Ba, bác ta cầm nến đi từ bếp về phòng mình ở ngay sát cạnh phòng ngủ của ông chủ, bỗng bác ta thấy bóng Tcharnotski đang đi xa dần ở cuối hành lang. Hơi ngạc nhiên, Martin quyết định thử kiểm tra xem hay đó chỉ là cảm giác mà thôi, bác ta liền vội vã theo sau. Nhưng tới cuối hành lang thì ông chủ đã biến mất, như ông đã độn thổ vậy.
Martin băn khoăn nhón chân rón rén vào phòng ngủ của ông chủ, và bác ta thấy gì? Tcharnotski đang ngủ trên giường như chẳng hề có chuyện gì xảy ra.
Vài ngày sau, cũng ban đêm, Martin lại trông thấy ông chủ của mình, nhưng lần này là ở cầu thang, ông đứng trên bậc thang, cúi người qua tay vịn và nhìn xuống dưới bằng cái nhìn siêu thoát. Martin sởn gai ốc, bác ta lao tới kêu lên:
- Ông định làm gì thế? Ông hãy biết sợ Chúa Trời, vì như thế là có tội!
Nhưng bác ta chưa kịp chạy đến gần, thì hình bóng Tcharnotski đã biến dạng một cách kỳ lạ, nhòa đi rồi như thấm vào tường, không một tiếng động. Martin làm dấu thánh rồi không suy nhĩ lâu, bác ta lao vào phòng ngủ của ông chủ, lạ chưa, cũng như lần nọ, ông đang ngủ rất say.
- Quái thật! Martin lẩm bẩm. Ma quỷ hay sao nhỉ? Mình có say rượu đâu.
Bác ta đã định về đi ngủ, thì bỗng trông thấy ở cuối phòng có một điều kỳ lạ: phía trên đầu ông chủ quãng một mét, lơ lửng một ngọn lửa đỏ bập bùng. Về hình dạng, nó giống như bụi cây đang cháy, và hình như những cái xúc tu rực lửa của nó đang cố túm lấy Tcharnotski.
- Lạy chúa! Martin kêu lên và chạy tới con quái vật lửa.
Thế là bụi cây đang cháy thu ngay lại những cái lưỡi lửa đang vươn về phía Tcharnotski, cuộn lại thành một cột lửa dày đặc rồi lập tức tắt ngấm, có tiếng xèo xèo nhè nhẹ.
Trong phòng ngủ khá tối, chỉ có ánh sáng yếu ớt của ngọn nến Martin để dưới sàn. Tcharnotski ngủ trên giường, người duỗi cứng đơ như gỗ...
Hôm sau, Martin thận trọng nói bóng gió với ông chủ rằng ông mệt mỏi, có cần gọi bác sĩ không, nhưng Tcharnotski nói lảng đi bằng một câu đùa mà không biết tiếp đó sẽ có chuyện gì.
Hai tuần sau thì xảy ra một tai họa...
Sự việc xảy ra vào đêm hai mươi tám rạng ngày hai mươi chín tháng Ba đáng ghi nhớ đối với dân chúng trong thành phố. Tcharnotski về nhà rất khuya, mệt rã rời, hôm ấy, đội cứu hỏa phải dập một đám cháy lớn ở khu kho nhà ga. Ông tỏ ra rất dũng cảm, không chỉ một lần coi thường nguy hiểm để cứu mấy nhân viên đường sắt ngủ say ở các xó xỉnh trong khu kho. Về nhà quãng gần mười giờ, ông để nguyên quần áo nằm lăn ngay xuống giường và ngủ như chết.
Những ngày gần đây, lo lắng cho chủ, Martin như một con chó trung thành canh giữ sự yên tĩnh của ông ở phòng bên, bác ta không tắt đèn, thỉnh thoảng lại ngó sang phòng ngủ của ông chủ. Đêm ấy bác ta buồn ngủ quá, mái đầu bạc nặng nề ngả sang vai và cuối cùng gục xuống bàn.
Bác ta thức giấc vì có một tiếng động đáng ngại. Cố rũ đi cơn buồn ngủ, bác ta giụi mắt và lắng nghe. Tiếng động không lặp lại nữa. Bác ta bèn vớ lấy chiếc đèn chạy sang phòng ngủ của ông chủ.
Nhưng hỡi ôi, đã quá muộn. Mở cửa ra, bác ta thấy lửa bao quanh ông chủ như một vầng sáng, hình như hàng nghìn cái vòi lửa đang mút chặt váo thân thể ông.
Martin chưa kịp chạy đến giường thì quầng lửa đã như thẩm thấu vào thân thể người đang ngủ không còn dấu vết gì, cứ như hề chưa có lửa bao giờ vậy.
Run như cầy sấy, Martin luống cuống nhìn kỹ ông chủ.
Đột nhiên mặt Tcharnotski biến đổi một cách kỳ lạ: đang bất động bỗng nhăn nhó như thể bị co thắt hay hay bị động kinh, đến mức khó nhận ra. Như bị một sức mạnh bí ẩn nhập vào thân thể, Tcharnotski bỗng bật dậy, rú lên một tiếng man dại rồi lao thẳng ra khỏi nhà.
Lúc ấy là bốn giờ sáng, phía trên thành phố, cái ảo ảnh ngái ngủ đang đuổi nhau trong điệu vũ vòng tròn, lũ quỷ ác mộng ngán ngẩm cụp những đôi cánh hư ảo của chúng lại, miễn cưỡng chuẩn bị quay về, còn các thiên thần trầm ngâm cúi trên những chiếc giường của trẻ thơ thì vội vã đặt trên trán đứa trẻ nụ hôn tạm biệt...
Chân trời phía đông đã có những vệt tím. Bình minh xám nhạt, run rẩy trước cái lạnh buổi sớm, lan dần về phía thành phố như những làn sóng thức tỉnh, tỏa sáng, đổi mới. Đàn quạ thành phố thức dậy sau một đêm gà gật, bay một, hai, ba lần thành những vòng tròn màu đen phía trên tòa thị chính, rồi vừa kêu quàng quạc vừa đậu xuống những cành cây trụi lá trước mùa xuân. Lũ chó hoang lang thang ban đêm trong các ngõ tối, bây giờ kiếm cái ăn ngoài chợ...
Đột nhiên ở nhiều điểm trong thành phố vọt lên những ngọn lửa, lửa như một bông hoa nở tung những cánh hoa đỏ rực nhuốm hồng phía trên các mái nhà, vươn cao lên trời. Chuông nhà thờ gióng lên, sự yên tĩnh buổi sớm bị vỡ tung ra bởi những tiếng kêu, tiếng gào, iếng hét:
- Cháy! Cháy!
Ở ngoài chợ, các đám người chạy loạn xạ, các ô tô phóng như bay, cứu hỏa rú ầm ĩ. Một người mặc đồng phục lính cứu hỏa, mái tóc tung bay, tay cầm đuốc đang ra sức len qua đám đông.
- Ai đấy nhỉ? Ai?
- Bắt lấy nó! Bắt lấy! Tên đốt nhà!
Hàng nghìn cánh tay hướng về phía hắn.
-Tên đốt nhà! Tên tàn ác! Đám đông điên cuồng giận dữ gầm lên.
Có ai đó hắt ngọn đuốc ra khỏi tay hắn, có ai đó ôm nghiến lấy hắn. Hắn vùng ra, sùi bọt mép... Cuối cùng hắn cũng bị thuần phục. Và người ta đã dẫn giải hắn trên quãng trường, tay hắn bị trói chặt, quần áo hắn rách bươm. Mọi người chằm chằm nhìn vào gương mặt đang được. Mọi người chằm chằm nhìn vào gương mặt đang được ánh bình minh yếu ớt chiếu sáng.
- Ai thế này?
Những người áp giải bất giác buông thõng tay xuống.
- Ai thế này?
Mấy người lính canh khiếp sợ cứng họng không nói được nữa.
- Sao mặt trông quen quen?
Trên vai kẻ điên rồ lủng lẳng những cái ngù vai bị tuột ra trong lúc ẩu đả, đó là ngù vai của giám đốc sở cứu hỏa, còn trên áo sơ mi rách lấp lánh tấm huy chương "Vì có công chữa cháy", lóe sáng cây thập tự vàng "Vì lòng dũng cảm". Và gương mặt kia, một gương mặt biến dạng đi trông như thú vật, với hai con mắt xếch đỏ ngầu máu!...
Suốt một tháng ròng sau đám cháy khủng khiếp đã thiêu rụi bảy công trình xây dựng đẹp nhất thành phố ấy, đêm nào Martin cũng trông thấy bóng ma Tcharnotski. Bóng kẻ điên rồ trườn vào phòng ngủ, cúi xuống chiếc giường bỏ trống lục lọi ở đó tìm thân thể, có lẽ để lại nhập vào? Hỡi ôi, chỉ tổ uổng công...
Mãi tới cuối tháng Tư, sau khi ông giám đốc sở cứu hỏa bị nhốt ở bệnh viện của bác sĩ Zhegota, trong tình trạng mất trí nhớ đã nhảy qua cửa sổ tầng gác xuống đất và chết tại chỗ, bóng ma của ông ta mới thôi không về nơi ở cũ nữa...
Nhưng mãi tới nay mọi người vẫn còn kể cho nhau nghe câu chuyện hoang đường về hồn ma của ông Chịu Lửa: nó đã để lại thân xác của nó trong giấc ngủ, rồi không quay trở về được nữa, bởi các sinh vật lửa đã chiếm mất.

Nightmare


Hắn phóng xe như điên trên đường, liếc mắt nhìn đồng hồ. Bảy giờ mười hai phút tối. Vậy là đã muộn hơn một tiếng rồi.

Nightmare

Lê ghét nhất là những ai đến muộn giờ. Lê là bạn gái hắn. Hắn hẹn với Lê sáu giờ sẽ đến. Đúng ra hắn cũng không định đến muộn, lúc hắn ra khỏi nhà mới có bốn giờ kém. Hắn đã đi chơi. Hắn định chỉ làm một phát khoảng một tiếng thôi, không ngờ cô ả lấy đắt quá, hắn ức chế chơi đến cùng cho đỡ phí, ba lần, mỗi lần một tiếng. Cô em cave chỉ hăng hái say sưa phục vụ trong một tiếng đầu tiên, còn hai tiếng sau thì hắn phải nghe cô ả vừa khóc vừa la oai oái, cô ả phát khiếp lên vì hắn. Tuy nhiên hắn cảm thấy cũng chưa được thỏa mãn lắm, hắn luôn nghĩ chắc Lê phải tuyệt hơn rất nhiều. Những điều ấy hẳn vẫn còn là một ước mơ xa vời, vì Lê là một thiên thần trong sáng dễ thương, thậm chí cô bé còn chưa dám hôn hắn, hay đúng hơn là để cho hắn hôn. Lê đẹp. Khi lần đầu hắn gặp Lê, ấn tượng đầu tiên và mạnh mẽ nhất của hắn về Lê rất đơn giản: hắn chưa bao giờ gặp ai đẹp như Lê. Một đôi mắt tinh nghịch, cuốn hút đến chết người. Một khuôn mặt tròn trĩnh dễ thương, đôi gò má đầy đặn quyến rũ. Một đôi môi mật ong ngọt ngào gợi cảm. Còn thân hình của Lê, hắn không thể tin được rằng nhìn thấy thân hình của Lê mà đàn ông trên thiên hạ vẫn chưa đi tù hết. Lê là một tuyệt phẩm hoàn hảo nhất của tạo hóa, hấp dẫn đầy ma lực, không thể cưỡng lại. Hắn bằng tuổi Lê, nhưng Lê vẫn gọi hắn là anh. Lê luôn giận hắn rất dai nếu hắn đến muộn, giờ hắn đang phải nghĩ xem mình nên nói gì với Lê. Hắn cũng hơi cảm thấy có lỗi. Không sao, hắn tự bào chữa, con gái cũng nên thỉnh thoảng bị bỏ bom một lần.
Hắn đỗ xe, nhảy xuống. Đưa tay lên chuông cửa, hắn rụt rè ấn.
Bảy giờ hai mươi lăm phút.
Sao không có ai ra nhỉ? Hắn ấn chuông lần nữa, rồi áp tai vào cánh cửa, lắng nghe. Nhà Lê nằm trên ngõ chợ, khá đơn giản, chỉ một cánh cửa gỗ đặc mỏng phân cách giữa khoảng sân hẹp và phòng khách, ngoài khoảng sân là cánh cổng không khóa bao giờ. Chỉ cần áp tai vào cánh cửa gỗ là nghe được hết.
Gì thế này? Hắn nghe thấy một tiếng kêu đau đớn phát ra. Hắn nhận ra giọng nói mềm mượt, thanh ngân, trong trẻo ấy. Lê bị sao rồi? Tiếng kêu vừa rồi cho hắn biết rõ ràng là Lê đang bị đau. Làm gì bây giờ? Hắn cuống lên, xoay nắm cửa. Tất nhiên là cửa khóa. Hắn hơi lùi lại một chút, co chân đạp mạnh. Đến lần đạp thứ ba, cánh cửa bật ra.
Khi hắn nhìn vào phòng, hắn đã bị shock.
Lê…
Lê đang ngồi trên chiếc ghế gỗ cao, khuôn mặt đầy vẻ đau đớn, đôi môi run run và hai gò má đẫm nước mắt. Người Lê gập hẳn xuống, màu đỏ sẫm đang loang dần trên chiếc áo phông trắng. Máu! Đó là máu, và máu vẫn đang rỉ ra từ nơi con dao trên bụng Lê, khi Lê ấn mạnh thêm hai tay vào con dao ấy. Lê đã tự đâm con dao đến lút cán vào bụng mình. Tự sát!
Hắn đứng như trời trồng, đôi chân hắn tê dại, hắn không hiểu sao mình không thể cử động được. Hắn cứ đứng đó, bất động, mắt trợn ngược lên nhìn Lê.
Đôi gò má Lê vẫn đẫm nước mắt, và Lê nói, tiếng nói nức nở của một cô gái đang khóc.
Anh đã quên em… Anh đã đến muộn… Em đã chỉ hẹn một mình anh, chỉ em và anh, em đã nghĩ hôm nay sẽ là sinh nhật vui vẻ nhất của em… Vậy mà anh đã quên… Em yêu anh, nhưng em không thể chịu nổi nếu như anh quên em… Vĩnh biệt!
Mắt hắn hoa lên khủng khiếp. Hắn hoảng sợ. Hắn lúng túng không biết phải làm gì. Hắn đứng đó, nhìn cơ thể Lê đổ sang một bên, gục xuống chiếc bàn cạnh đó. Lê đã tự sát!
Mình phải làm gì đây, hắn nghĩ. Không, không được. Có lẽ Lê đã chết. Lê đã tự sát! Không, không thể như thế được!
Hắn hóa điên. Hắn sập cửa lại, bổ nhào ra xe, nhảy lên và rồ ga phóng đi. Hắn vặn ga hết cỡ, lao đi trên đường. Mắt hắn vẫn hoa lên, không nhìn rõ bất cứ thứ gì trên đường. Gió tạt vào mặt hắn khô rát. Hắn bỏ chạy, đúng, hắn đang bỏ chạy một cái gì đó mà hắn cũng không biết là cái gì, có lẽ hắn đang bỏ chạy khỏi nỗi sợ hãi của chính mình.
Hắn vụt qua một ngã tư trong lúc đang đèn đỏ, một người đàn ông tầm gần năm chục tuổi suýt đâm vào hắn, hét to lên: “Mù à? Đi kiểu gì thế thằng chó kia?”
Nghĩ thế nào, hắn cua xe lại, phanh ngay cạnh người đàn ông đó. Hắn vẫn đang đứng gần ngã tư, nhảy khỏi xe, vứt cho nó đổ tự do trên đường. Hắn co nắm tay lại, rồi lấy hết sức tọng vào mặt người đàn ông đó một quả đấm. Ông ta ngã ngay, chiếc xe Dream đổ theo đè lên một chân. Hắn dựng xe lên, lại tiếp tục lao đi.
Bảy giờ bốn mươi ba phút.
Hắn lách cách mở khóa, rồi dập mạnh hai tay vào cánh cổng nhà. Bố mẹ hắn đi nghỉ mát cả, chỉ còn mình hắn. Hắn vừa chuệnh choạng, vừa cuống cuồng bước vào nhà, để rồi vấp ngã ngay từ bước chân thứ hai.
Đầu hắn đang điên lên, hắn tuyệt vọng khi cố gắng trấn tĩnh bản thân. Hắn vẫn nằm bò trên mặt đất, những kỉ niệm với Lê tràn về trong đầu hắn. Đôi mắt bồ câu sáng trong đến lạ kì, nụ cười dễ thương bừng sáng rực rỡ hơn mặt trời, tưới những tia nắng lên khuôn mặt nhợt nhạt của hắn. Hắn nhớ cái lần Lê mỉm cười ngượng nghịu khi hắn thử cầm tay Lê, và Lê đã rụt rè để hắn cầm. Cũng nụ cười mỉm bẽn lẽn ấy đã cho phép hắn lần đầu tiên đặt môi lên gò má dễ thương của Lê. Ôi chao, những kỉ niệm! Rồi những hình ảnh ấy tan biến trong đầu hắn, hắn thấy trước mắt hắn đang hiện ra cảnh khuôn mặt Lê đầy đau đớn, hai tay ấn mạnh con dao vào bụng mình, máu chảy đẫm áo, nhưng có lẽ không chảy nhiều bằng nước mắt…
Hắn gồng người đập mạnh đầu mình xuống đất. Hắn không biết hắn đã tự đập đầu bao nhiêu lần, hắn dừng lại khi thấy đầu mình đã trầy trụa máu. Không, hắn không thấy đau. Hắn thở hồng hộc như một con bò tót trong cơn điên loạn.
Hắn xộc vào nhà, giật mạnh cánh cửa tủ. Hắn phải bình tĩnh lại, phải quên chuyện này đi. Hắn không có mặt ở đó lúc Lê tự sát. Hắn không muốn rắc rối với công an. Hắn sẽ quên chuyện này, sẽ phải quên. Hắn tìm rượu, trong tủ nhà hắn có nhiều loại rượu. Chai rượu đầu tiên hắn nhìn thấy là một chai champaigne. Hắn vặn cái mở nút vào, giật lên. Rượu bắn vào mặt hắn, hắn cảm giác những giọt rượu trên mặt hắn là những giọt máu rỉ ra từ vết thương của Lê – cô bạn gái đáng yêu của hắn. Hắn cảm thấy ghê tởm trên mặt, vội lấy tay áo quệt đi, rồi dốc chai rượu vào cổ họng. Không có tác dụng, thứ rượu chan chát này chẳng làm hắn bớt đi cơn điên loạn. Chẳng khác nước lã là mấy, hắn tức giận ném mạnh chai rượu xuống sàn, vỡ choang. Rượu bắn ra thành một vũng đỏ trên nền nhà. Hắn vồ lấy một chai rượu khác. Lần này hắn lấy được một chai Vodka. Cái này sẽ có tác dụng hơn. Mùi rượu xộc lên tận óc hắn khi hắn nốc nốt ngụm cuối cùng của chai rượu một lít. Hắn vẫn còn cảm thấy mình tỉnh táo. Không được, hắn phải dập tắt cơn điên loạn này càng nhanh càng tốt. Đúng rồi, trong ngăn thuốc có thuốc an thần. Hắn mở tủ thuốc, tìm thấy một gói giấy ghi chữ “Thuốc an thần”. Không có liều dùng, hắn lấy ra một vỉ nguyên mười viên nén. Hắn bấm ba viên, lưỡng lự, rồi bấm thêm hai viên nữa. Hắn lấy thêm trong tủ ra một chai rượu, một chai whisky. Hắn uống năm viên thuốc với rượu, tu thêm nửa chai rượu nữa. Cuối cùng, nghĩ thế nào, hắn bấm nốt năm viên an thần còn lại trong vỉ, nốc nốt chai whisky với năm viên thuốc. Hắn còn lôi trong tủ ra thêm một chai rượu nữa, chẳng thèm xem nhãn mác gì, hắn tu sạch.
Đầu hắn choáng váng, mắt hắn không còn nhìn thấy gì nữa. Tai hắn ong ong lên những tiếng rền vang khó chịu, hắn như nghe thấy trong những tiếng ấy có lẫn cả tiếng kêu đau đớn của Lê, đôi lúc hắn còn tưởng như có cả những lời Lê nói với hắn trong những giây cuối cùng.
Lê đã tự sát, vì hắn! VÌ HẮN!
KHÔNG!
Hắn nằm vật ra đất, duỗi hết chân tay. Người hắn râm ran, rồi tê dại.
- o O o -
Chín giờ hai mươi phút tối.
Hắn cảm thấy một cơn gió lùa qua lạnh buốt. Theo thói quen, hắn với tay lấy chăn. Lùa mãi tay sang bên phải, không thấy chăn đâu, hắn mới nhận ra không phải hắn đang nằm trên giường.
Lạnh quá, một cơn gió nữa vừa mới lùa qua.
Hắn run lên cầm cập, người hắn tê đi vì lạnh, hắn cảm thấy từng lỗ chân lông đang mở ra đón gió lạnh. Mặt hắn tái đi.
Gian phòng hoàn toàn tối. Hắn sợ. Hắn chưa bao giờ sợ bóng tối, nhưng bây giờ thì hắn sợ. Và rồi, dù hết sức không muốn, hắn đã nghĩ đến Lê. Hắn sợ, sợ khủng khiếp khi nghĩ đến Lê, đến cái cảnh Lê tự sát… tự sát…
Lê tự sát vì hận hắn…
Hắn hối hận. Hối hận, nhưng đã muộn quá rồi.
Một cơn gió thật mạnh thổi qua cắt vào da thịt hắn, thấu tới tận xương, và xô cánh cửa giập mạnh làm hắn giật thót mình.
Sau cơn gió mạnh ấy, tiếng gió thổi vi vu, vi vu.
Hắn nghe thấy một giọng nói, một giọng nói như tiếng thở dài não nuột, xa xăm.
“Em… hận… anh…”
Hắn sợ, ôi sao mà hắn sợ! Xưa nay hắn chưa từng biết sợ là gì, từ bé đến giờ hắn chẳng bao giờ biểu lộ tí cảm giác gì – ngoại trừ cảm giác khinh khỉnh – khi xem phim kinh dị. Nhưng bây giờ thì hắn sợ! Hắn cảm thấy rõ ràng mặt mình đang tái đi, tê rần rần. Đầu hắn nhức kinh khủng, nhức như đang bị chuột gặm vậy.
“Em… hận… anh…”
Tiếng nói ấy càng ngày càng gần hơn, rõ hơn, thật hơn. Không, phải bình tĩnh, hết sức bình tĩnh. Không được sợ, chỉ là ảo giác thôi. Không có thật, tất cả không có thật. Ảo giác, là ảo giác!
Hắn tuyệt vọng vì không thể trấn tĩnh bản thân.
Một tiếng gió nhẹ lùa qua khung cửa ngăn giữa phòng khách và hành lang cầu thang. Hắn nhìn về phía ấy.
Một bàn tay màu trắng toát đang đặt lên khung cửa.
Mồ hôi hắn vã ra như tắm, mặc dù thân thể hắn đang buốt đi vì lạnh.
Dần dần, hắn thấy một cánh tay, rồi một bờ vai, và cuối cùng là một khuôn mặt, tất cả đều màu trắng toát. Gương mặt quen thuộc của…
Bạn gái hắn…
Lê…
Đầu hắn giẫy mạnh để xua đi những hình ảnh đó, nhưng vô ích, Lê đã xuất hiện trước mặt hắn. Toàn thân trắng toát, mái tóc cũng trắng mờ, phủ lên thân hình Lê là một tấm vải trắng bồng bềnh như một tấm rèm cửa, hơi giống với trang phục của tu sĩ châu Âu. Lê di chuyển như một cơn gió, đôi bàn chân bước đi chẳng ăn nhập chút nào với tốc độ di chuyển. Thân hình Lê hiện ra mờ mờ sau làn vải trắng mỏng, nhưng hắn không chú ý. Mắt hắn đờ ra trên khuôn mặt xám ngoét, trợn lên nhìn vào khuôn mặt trắng toát của Lê. Đôi môi rạn nứt, mí mắt cũng rạn nứt, mở to ra khoe hai con mắt hằn lên những tia màu đỏ máu.
Hắn chìm trong cơn khiếp đảm, kinh hoàng.
Cơ thể Lê lướt về phía hắn lạnh buốt. Một bàn tay đưa lên, chỉ vào mặt hắn.
Em đã biết tất cả. Em hận anh! Anh đã quên em để đi với một con gái điếm. Em hận anh! Em sẽ giết cả hai, cả anh và con điếm đó. Em sẽ giết… Anh đáng chết lắm. Em sẽ lôi anh xuống địa ngục!
Hắn hoảng loạn. Hắn muốn thốt ra một câu gì đó, van xin, giải thích, bất cứ một điều gì có ích cho hắn lúc này để xua đi cái hồn ma ai oán kia. Đôi môi Lê nở một nụ cười nghiệt ngã, băng giá. Hồn ma giơ hai bàn tay về phía hắn, chực siết cổ hắn, hắn cảm thấy cổ mình lạnh buốt khi đôi bàn tay trắng toát kia tiến đến gần. Hắn vùng dậy và chạy.
Hắn chạy.
Cửa ra ngoài đã đóng, vì cơn gió mạnh lúc nãy. Hắn cảm thấy không còn thời gian để mở cửa. Hắn bổ nhào ra cầu thang, chạy lên trên tầng. Hắn không quay đầu lại, nhưng hắn biết hồn ma đang đuổi theo hắn, ngày càng gần hơn, bước chạy của hắn cứ chậm dần mà tưởng như bước đuổi lại càng mau. Chỉ đoạn đường từ tầng một lên sân thượng tầng bốn mà hắn mấy lần tưởng chết. Đến lúc hắn lên được bậc thang trên cùng, hắn vấp ngã một cái. Hắn cứ tưởng mình đã chết rồi. Cho dù có không vấp ngã thì có lẽ hắn cũng chẳng chạy được tiếp nữa, hắn đã kiệt sức lắm rồi. Hắn quay đầu lại, nằm ngửa ra.
Không một câu từ nào có thể tả được cảm giác của hắn bây giờ, tất cả là một nỗi khiếp đảm trùm lên không gian quanh hắn, xộc vào cổ họng, bơm đầy hai lá phổi hắn, bóp nghẹt tim hắn.
Hồn ma đang đứng đó, nhìn hắn với cặp mắt đầy tự mãn và nụ cười khinh bỉ.
Anh nghĩ anh có thể chạy được sao? Anh nghĩ anh sẽ thoát khỏi em ư? Không bao giờ! Em yêu anh, em sẽ kéo anh xuống địa ngục cùng với em!
Hắn hét lên. KHÔNG!!!
Đôi chân hắn giãy giụa, đạp mạnh xuống đất, nhưng chỉ giúp hắn lê đi được có vài phân. Hắn lại vùng đứng dậy, điên cuồng chạy, cắm mặt chạy ra đến tận mép sân thượng. Không một chút do dự, hắn gồng chân nhảy xuống. Nhảy xuống từ sân thượng của một ngôi nhà bốn tầng.
Trong vài giây ngắn ngủi khi đang rơi, hắn nhìn thấy Lê đang đứng đón sẵn ở dưới, với vòng tay mở rộng ra như thể muốn ôm hắn, và một nụ cười thỏa mãn.
Chín giờ sáng.
Cửa bật mở. Một người con trai tầm hơn hai mươi tuổi bước vào. Bao nhiêu cặp mắt trong phòng tỏ vẻ mừng rỡ khi thấy anh. Lê đứng bật dậy, rất nhanh, tay rút ra trong túi quần một vật gì đó sang sáng, bổ nhào về phía người con trai đó.
Hai bàn tay cô bé nắm chắc vật đó, đâm mạnh vào bụng người con trai.
“Hự…”
Một tiếng rên khẽ, người con trai lấy hai tay ôm bụng, khuôn mặt xám đi, nhăn nhúm vì đau đớn. Từ bụng anh, máu đỏ đang tứa ra đẫm áo.
Bao nhiêu khuôn mặt trong phòng căng ra, những đôi mắt trợn tròn lên, những khuôn miệng há hốc. Một giây, hai giây, ba giây, rồi mười giây trôi qua, các khuôn miệng khép dần lại, da mặt trùng xuống và đôi mắt thả lỏng.
Khiếp, chúng mày làm mẹ sợ muốn chết!
Cả Lê và người con trai kia đứng dậy và cười. Lê rút con dao ra từ bụng Thành – người anh họ thân nhất của Lê, vừa từ Mỹ về nước nghỉ hè. Thành học trường sân khấu điện ảnh của Mỹ. Hai anh em hợp và thân nhau lắm, Thành bảo Lê cũng có khiếu điện ảnh. Con dao kia là anh ta mua tặng Lê, lưỡi dao thụt vào trong khi đâm và máu giả tứa ra từ ống dẫn.
Em làm bẩn hết áo anh mới mua rồi, thứ này khó giặt lắm đấy!
Thế thì diễn mới thật chứ! Lê cười, và cả căn nhà rộn lên tiếng cười ấm cúng.
- o O o -
Bất kì một dược sĩ nào cũng biết rằng nếu dùng thuốc an thần chung với rượu thì thay vì an thần, nó sẽ kích thích thần kinh ghê gớm, còn nguy hiểm hơn cả thuốc lắc.
Kết Thúc (END)

Tác Giả: Nguyễn Đại.

Ma Đói


Note: Viết theo lời kể của một sỹ quan chiến tranh chính trị(CTCT) thuộc sư đoàn 23BB, đồn trú tại thị xã BMT tỉnh Đắc Lắc. Bài này cũng được gợi hứng do lời reply của Tha Hương về bọn ma đói về quấy phá một trại cải tạo tại Bầu Lâm, Xuân lộc!

Ma Đói

Tam Tang
Tôi tốt nghiệp trường Sỹ Quan CTCT Đà Lạt vào đầu mùa Thu 73 với cấp bậc Thiếu Úy! Được cử về đại đội 23 CTCT thuộc sư đoàn 23 BB. Trang trại của đại đội nằm sau lưng Tiểu Khu Đắc Lắc và kế bên một nghĩa trang Quân Đội! Bên kia đường, đối diện với nghĩa trang là một xóm nhà dân thuộc khu Trần Hưng Đạo! Trại tôi gồm có 3 dãy nhà dài dùng làm văn phòng và kho chứa các tài liệu! Chúng tạo hình chữ U với đáy dựa về hướng nghĩa trang! Ở dãy nhà này có một gian được ngăn làm hai buồng cho các sỹ quan độc thân ở hoặc sỹ quan trực ngủ qua đêm! Cuối dãy là một nhà bếp nhỏ dùng để phục vụ cho các sỹ quan và hạ sỹ quan độc thân của đại đội!
Tôi là sỹ quan độc thân duy nhất trong đơn vị nên chiếm một căn phòng cho mình. Cơm nước đã có nhà bếp lo; quần áo thì cuối tuần đưa ra tiệm giặt ủi thế là xong! Cuối tuần tôi hay lang thang ra phố uống cà fê, rồi ghé vào rạp Thăng Long xem chiếu bóng! Thành phố Ban Mê Thuột (BMT) nhỏ lắm, đi vòng vòng chừng nửa tiếng là lại về chổ khởi hành rồi! Có năm rạp hát cả thảy, nhưng tôi thích xem ở rạp Thăng Long vì ở đó chiếu phim của Mỹ hay Pháp, còn các rạp khác chỉ toàn phim kiếm hiệp Hồng Kông mà tôi chúa ghét! Thỉnh thoảng có ngày nghỉ, tôi thường đến ngồi dầm tại quán cà fê "Mây Hồng" bên hông trường trung học Tổng Hợp BMT để ngắm các tà áo dài xanh của các cô nữ sinh sau giờ tan trường!
Tuy BMT và Pleiku cách xa nhau hơn trăm cây số, nhưng hai thành phố gần giống như nhau, cũng bé như nhau, có sương mù, có gió lành lạnh! Tôi thấy bài hát của Phạm Duy về em gái Pleiku má đỏ môi hồng cũng có thể áp dụng cho cái xứ "Buồn Muôn Thủa" này!
Mấy ngày đầu mới về đơn vị, tôi phải lo các thủ tục giấy tờ, lo dọn dẹp chổ ăn chổ ngủ, rồi lại phải nhậu mấy chầu với các sỹ quan đàn anh trong đơn vị ! Tôi mệt nhoài người nên đêm về ngủ như chết! Tuần sau mọi việc đã đâu vào đấy rồi thì những sự việc lạ bắt đầu xảy ra, gây cho tôi sự chú ý! Vào nửa đêm 30, trời tối đen! Gió thổi thì thào mang theo cái lạnh cao nguyên xuyên qua các kẻ hở của vách ván vào tận trong phòng! Tôi co rúm người trong chiếc chăn nhà binh! Bổng tai tôi nghe tiếng reo hò, tiếng đánh nhau hòa lẫn cùng với tiếng gió phía sau dãy nhà! Tôi tự nghĩ sao ai lại đánh chửi nhau vào giờ này kìa! Tôi hiếu kỳ mở cửa bước ra xem! Ngoài trời vắng lặng, chỉ có tiếng côn trùng rả rích và ánh sáng của mấy con đom đóm lập lòe đó đây! Tôi bước tới vọng gác trước cổng hỏi người lính canh:
_ Anh có nghe thấy gì không?
_ Không! Không có gì xảy ra cả !
Tôi trở về phòng tự trấn an, có lẽ mình tưởng tượng ra mà thôi! Rồi như các chàng thanh niên trẻ khác tôi lăn ra ngủ say cho tới tiếng kẻng báo thức nổi lên với lăn xuống giường chuẩn bị cho một ngày làm việc mới! Đêm sau, tiếng con cú mèo (có nơi gọi là chim heo) kêu éc éc trong nghĩa trang sau nhà làm tôi thức giấc! Và tôi lại nghe tiếng hò hét, tiếng chửi nhau, rồi tiếng đánh nhau vang dội sau nhà ! Tôi lần xuống giường, ghé mắt vào kẻ hở trên vách nhìn về hướng nghĩa địa, chẳng có ai cả ! Tiếng động cũng im bặt ! Chỉ có một con cú mèo đậu trên đỉnh của cái tháp "Tổ Quốc Ghi Ơn", và mấy con đom đóm bay vờn vờn trên các ngọn cỏ bông lau mọc ven rào của nghĩa trang!
Tôi không nghĩ là mình nghe lầm hay tưởng tượng ra! Lần này là lần thứ hai tôi nghe mà! Tôi đợi một lát nhưng chẳng có gì xảy ra nữa!
Trở về giường tôi trằn trọc nghĩ về điều này và tự nhủ là nhất định phải tìm hiểu sự việc này!

Sáng hôm sau tôi hỏi một sỹ quan trong đại đội về việc này, anh ta hơi biến sắc nhưng cố đổi giọng nói:
_ Làm gì có chuyện đó!
Xong anh ta quay qua chuyện khác! Điều đó chỉ làm cho tôi thêm nghi ngờ mà thôi! Tôi hỏi một vài người lính họ cũng ởm ờ và lảng qua chuyện khác!
Hình như mọi người cố tránh nói về sự kiện này! Không thỏa mãn với bạn đồng ngũ, tôi quyết mang chuyện này đi hỏi những người dân quanh đây!
Cuối tuần đó khi mang quần áo bỏ giặt ủi, tôi bắt chuyện với bà chủ tiệm. Bà ta chừng khoảng 40, người Quảng nên giọng nói hơi khó nghe, nhưng tôi hiểu hết các điều bà nói! Khi nghe tôi hỏi về sự việc tôi trải qua hai đêm liền, bà ta trầm giọng trả lời:
_ Ông mới vềnên không biết thôi, chứ ở đây ai cũng rành về mấy con ma ở chổ trại ông ở hết trơn! Mấy ông lính cũng biết rành hết chứ! Có lẽ mấy ổng không muốn ông hoang mang hay sợ nên họ giấu ông đó!!
_ Xin thím kể cho tôi nghe đi! Tôi không sợ đâu!
_ Được rồi nếu ông không sợ thì tui kể đầu đuôi cho ông nghe!
"Chuyện này bắt nguồn từ năm 68 lận! Đêm 30 Tết năm đó VC đánh vào thị xã BMT, chúng tổng tấn công vào
hầu hết các căn cứ quân sự và hành chánh trong thị xã! Từ phi trường Phụng Dực đến bộ chỉ huy trung đoàn 45 tại cây số 5, cả đến bộ chỉ huy sư đoàn 23, luôn cả tiểu khu Đắc Lắc lẫn Tòa Hành Chánh tỉnh, và cả kho đạn Mai Hắc Đế nữa! Tuy hầu hết lính đã đi phép Tết, những người còn lại vẫn chiến đấu rất dũng cảm! Họ đẩy lùi mọi cuộc xung phong của VC vào các căn cứ của họ! Vài tuần sau khi tàn cuộc chiến, bọn VC để lại mấy ngàn xác chết quanh vòng rào các căn cứ quân sự! Xác chết sình thúi rất ghê tởm! Lính công binh phải dùng xe ủi để đào các hố lớn làm mồ chôn tập thể cho các xác chết này! Tui biết vài chổ như một ở Trung Tâm Tình Thương, một ở trại Mai Hắc Đế, và một chổ ở cạnh bên nghĩa trang quân đội! Tui không biết mấy ông lớn nghĩ sao mà lại cho cất trại lính ngay trên cái mồ tập thể đó! Tui nói cái trại của ông đó, ông Thiếu Úy à!
Từ khi có ngôi mộ tập thể đó dân chúng sống dọc theo nghĩa địa bắt đầu bị quấy phá! Lúc đầu thì họ chưa biết gì hết! Thỉnh thoảng đêm đến có vài người ăn mặc rách rưới gỏ cửa xin cơm ăn, nhưng riết rồi người ta nghi ngờ vì toàn là người lạ mặt nói đặc tiếng Bắc không thôi! Họ nghi là ma nên không mở cửa cho ăn nữa! Nhưng rồi bọn ma đói đó làm tới! Không cho thì chúng quậy! Nhà nào còn cơm nước thừa qua đêm đều bị quậy thiu vữa hết! Bà con sợ mấy con ma này nên kẻ thì xin bùa về treo trước cửa, người thì lấy nước phép về rẩy khắp nhà trước khi đi ngủ! Bọn ma càng ngày càng lộng hành! Chúng kéo nhau nhát những người đi chơi khuya về! Riết rồi chẳng ai dám đi ngang nghĩa địa vào ban đêm nữa! Bà con mời thày cúng về nhờ mấy người lính chôn trong nghĩa trang quân đội gíup họ xua đi bọn ma đói kia! Từ đó bà con không còn bị phá nữa, nhưng những người nhẹ vía sống gần đó vẫn thường nghe tiếng la hét đánh nhau vào những đêm tối trời! Có lẽ hồn của các anh lính chận đánh bọn ma đói mò đi kiếm ăn! Một vài người trong trại ông cũng nghe tiếng la ó đó mà! Đó là lý do mà không có ai chịu ở trong trại của ông hết, họ sợ nên mướn nhà riêng để ở hết trơn!"
Tôi về trại đem chuyện này nói lại với anh nhà bếp, anh ta ngập ngừng một chút rồi nói:
_ Chuyện này có thiệt đó Thiếu Úy ạ ! Ông mới về nên chúng tôi không dám nói sợ Ông hoang mang!
Ngay cuối tuần đó tôi đi mướn một căn nhà nhỏ ở sau Ty Ngân Khố thuộc khu Trần Hưng Đạo, nhà cũng gần trại của tôi! Từ đó tôi chỉ ở lại trại
vào những đêm trực mà thôi! Tuy thế âm thanh của những tiếng reo hò đó vẫn ám ảnh tôi cho đến ngày nay!!!!

Hết

 
Support : Tài Liệu Học Tập | Vui Cười | Kỹ Năng
Copyright © 2011. Life To Sharing - All Rights Reserved
Design by Mr.Csmprince Published by SVnet
Proudly powered by Blogger